Tìm bài cũ

14.6.11

Ký ức trường Phan Đăng Lưu


Ký ức trường Phan Đăng Lưu

Phan Thế Hải
Đăng ngày: 12:57 13-06-2011
Tới mùa khai giảng năm nay (2011), trường Phan Đăng Lưu chẵn 5 chục niên. Nửa thế kỷ qua, nhiều thế hệ người Yên thành đã từ đây ra đi, lập nghiệp ở hàng trăm lĩnh vực khác nhau. Có người đã bỏ một phần thân xác, có người hy sinh nơi chiến địa, có người thành ông nọ bà kia, rất oách.
Thế hệ chúng tôi,  vừa trở thành học sinh của trường Phan, được chứng kiến đất nước thống nhất, lửa chiến tranh bớt cháy nên đỡ khốc liệt hơn. Tuy nhiên, với thời hậu chiến lại thêm tư duy bao cấp trói chặt nên đời sống vô cùng khó khăn. Nay đã quá nửa đời phiêu bạt, trải qua bao thăng trầm và chứng kiến bao biến động lớn của lịch sử, nhưng những ký ức thời học trò ở trường Phan vẫn không bao giờ quên.
Thời đó, trường còn mang tên: Trường cấp 3 Yên Thành 1, do thầy Nguyễn Như Du làm hiệu trưởng. Trường có 33 lớp, chia thành 3 khối: 8; 9; 10. Mỗi khối có 11 lớp, đánh theo thứ tự chữ cái từ ABC đến IJK. Các thầy cô giáo đã từng dạy chúng tôi cho đến bây giờ vẫn là những tấm gương đẹp. Không nhớ họ nhưng tên thì dường như tôi không quên một thầy nào. Cô An vợ thầy Diệm dạy toán, thầy Yến dạy văn, cô Mai Anh dạy Vật lý…. Trong số đó, kỷ niệm sâu sắc nhất là thầy Phạm Ngọc Cảnh. Thầy quê ở Quỳnh Lưu, là giáo viên chủ nhiệm lớp 9k của tôi.
Thầy chỉ là giáo viên dạy Trung Văn nhưng với tôi, thầy vẫn để lại những kỷ niệm không bao giờ quyên. Theo như thầy giới thiệu, tốt nghiệp Đại học ngoại ngữ, thầy về công tác ở Bộ ngoại giao, sau vì muốn về gần nhà, thầy mới xin đi dạy. Là Phiên dịch tiếng Trung, nên thầy thường kể về  chuyện của nhân viên ngoại giao, về các buổi lễ tiếp tân cấp bộ, ngành, thậm chí cấp Nhà nước.
Thầy cũng hay kể chuyện về những chuyến công cán nước ngoài, những vùng đất thầy đã có dịp đi qua khiến đứa nào cũng phải há hốc mồm ra nghe. Với những đứa học sinh vùng quê lúa, quanh năm chỉ biết đến đồng ruộng, rừng rú và những cuốn sách giáo khoa cũ mòn, những câu chuyện của thầy quyến rũ và hấp dẫn vô cùng.
Thời đó, tháng 3 âm lịch là tháng giáp hạt, dẫu còn đi học nhưng vào những ngày cuối tuần chúng tôi vẫn phải đi rú lấy củi, như là một nghề đảm bảo cho cuộc sống của nhà nông. Hồi đó, rừng còn nhiều, từ Hoa Thành chỉ cần đi lên Đồng Thành, qua dốc Hủng Trăn là có thể bắt gặp những cánh rừng nguyên sinh, nơi cung cấp chất đốt cho những xã miền xuôi.
Đi đường đất mất độ chục cây số, nhưng với chúng tôi hồi đó là cả đoạn đường dài dằng dặc đầy mồ hôi và lam lũ. Gần trưa, khi đã kiếm đủ hai gánh, đủ cho một chuyến xe cải tiến, là lúc phải vác củi xuống rú, cũng là lúc mà mặt trời bắt đầu đứng bóng. Nắng đầu mùa vừa oi nồng, vừa khó chịu, vác bỏ củi chỉ vài ba chục cân nhưng đường rừng gập ghềnh, bụng đói lả, vất vả vô cùng.
Những lúc dựng bó củi lưng chừng núi, dưới cái nắng chói chang, mồ hôi ướt đầm vai áo ngẫm thấy cuộc đời cơ cực quá, nhớ lại những câu chuyện của thầy Cảnh kể về những nơi mà thầy đã từng đến, tôi ước rằng, học hết phổ thông, góp một ít tiền, mua vé tàu ra Hà Nội, nhìn thấy Thủ đô, đái một bãi rồi về là mãn nguyện lắm rồi.
Giờ kể lại chuyện này, không ít người cho rằng, sao hồi đó ông hèn đến thế. Ước mơ của ông vừa hèn vừa tục. Đã ước mơ thì ước cho oách luôn. Cứ gì đi Hà Nội, đi hẳn Sài Gòn đi, rồi đi nước ngoài nữa. Tây Tàu, Mỹ Nhật, không ước luôn một thể.
Thực ra thì, khi đối diện với một thực tiễn khắc nghiệt và phũ phàng, khi phải gò lưng kéo xe củi trên con đường gập gềnh đầy ổ gà, ước mơ duy nhất là được thoát khỏi thực tiễn âý. Ước được đi Hà Nội, dẫu chỉ ra rồi về ngay cũng là quá xa xỉ.
Còn chuyện đái một bãi chẳng qua là bắt chước hành động của Tôn Ngộ Không trong Tây Du Ký. Rằng, khi Ngộ Không dùng phép cân đẩu vân bay ngàn dặm hòng thoát khỏi bàn tay của Như Lai để được Ngọc Đế nhường Thiên Cung, sau khi nhổ một sợi lông, biến thành một cây bút đẫm mực, đề một hàng chữ lớn vào cây cột giữa: “Tề Thiên Đại Thánh đã đến đây một lần”. Viết xong, Ngộ Không thu lông, dường như chưa yên tâm còn đái một bãi ngay dưới chân cây cột thứ nhất, xong xuôi chuyển cân đẩu vân, về thẳng nơi trước, đỗ xuống tay Như Lai…
(còn tiếp)
  • Phan Thế Hải
Chuyện cũ ở trường Phan (tiếp kỳ trước)
Phan Thế Hải
Đăng ngày: 10:27 14-06-2011
Nhân chuyện đi đái, cũng xin được kể thêm, hồi đó, cả trường có 33 lớp, mỗi lớp gần năm chục học sinh, vị chi là khoảng hơn 1 ngàn 6 trăm học sinh. Tuy nhiên, bằng ấy con người chỉ có mỗi nhà vệ sinh công cộng, bất tiện vô cùng. Gọi là nhà vệ sinh nhưng thực tế đó là khu mất vệ sinh nhất thế giới. Cùng với sự bừa bãi tuỳ tiện là mùi amoniac nồng độ cao đến nghẹt thở. Đi qua đã thấy khiếp, còn đứng lại đó là cả một cực hình.
Theo thầy Cảnh, bọn tư bản lắm tiền nên mỗi căn nhà chỉ có ba bốn người ở nhưng có đến ba bốn nhà vệ sinh. Xa hoa, lãng phí. Còn đất nước ta XHCN ưu việt hơn nên thường cái gì cũng tập thể. Nhà ăn tập thể, phòng ngủ tập thể, nhà vệ sinh tập thể…những khu tập thể nổi tiếng ở Hà Nội thời ấy như Kim Liên, Trung Tự, Thành Công… mỗi tầng có mấy chục hộ cũng chỉ có một nhà vệ sinh tập thể.
Hồi ấy, trường Phan nằm chênh vênh giữa cánh đồng Tro, vắng vẻ và không có dân cư đông đúc như bây giờ. Trước cửa là mương nước khá rộng tiếp giáp với đường 538. Mỗi lần ra chơi, nhà vệ sinh thường chật kín, nên một số chị em thường ra ngay cổng trường cạnh mương nước, nơi đó có những lùm cây che khuất để giải quyết nỗi buồn. Việc này diễn ra khá thường xuyên, nhà trường nhắc nhở nhiều lần nhưng không có kết quả. Nhân phong trào báo tường, thằng Sơn kều đã làm mấy câu thơ theo thể thất ngôn tứ tuyệt:
Ai đó ngồi ngay cạnh cổng trường
Một dòng nước nóng chảy vào mương
Kiến tưởng mưa to ôm trứng chạy
Dế vểnh râu nhìn dạ vấn vương.
Bài thơ đã nhanh chóng được phổ biến rộng rãi trong đám học trò. Chị em thấy mình bị bêu riếu tỏ ra ấm ức. Thực ra thì bọn con trai cũng chẳng tử tế gì. Những buổi học nhóm, học tổ, khi có nhu cầu, không muốn phải ra nhà vệ sinh công cộng khiếp đảm ấy, có thằng đứng ngay cạnh cửa sổ, phát huy lợi thế của giống đực, vạch quần câu thẳng ra ngoài.
Đám con gái hội ý nhau lại rồi cũng cho ra một bài theo thể thức ấy:
Ai đánh tường thâm cửa sổ hè
Một vùng cỏ mọc bỗng vàng hoe
Trời đang hạn hán đường khô nẻ
Bất chợt bên song cửa sổ tè.
Những câu thơ này, chỉ người xứ Nghệ mới hiểu, bởi hai từ đầu của mỗi bài đều sử dụng cách nói lái kiểu miền Trung mà người Bắc không quen. (Ai đó = O đái).
Năm 2005, trong chuyến đi công tác ở Trung Quốc, sau khi làm việc với Tân Hoa Xã, chúng tôi đi thăm tháp Truyền hình Đông Phương Minh Châu. Trên quả cầu cao nhất của tháp là đài quan sát, ở độ cao 259 mét, phóng tầm mắt nhìn toàn cảnh thành phố Thượng Hải hùng vĩ và hiện đại. Một cảm xúc dạt dào khó tả, bởi từ năm 1975, thầy Cảnh đã kể cho chúng tôi nghe những câu chuyện ly kỳ về xứ sở Thần Châu trong những bài học tiếng Trung ở trường Phan.
Sau mười năm rời trường Phan, tôi đã trở thành công dân của Hà Nội. Không chỉ thế, còn có cơ hội lang thang nhiều nước trên thế giới và nhiều lần đến Trung Quốc. Trong những lần sang đó, cùng với tiếng Anh, tôi vẫn sử dụng vốn tiếng Trung ít ỏi học được từ thời phổ thông của thầy Cảnh, giao dịch với các đối tác. Với chiều cao 468 m, Đông Phương Minh Châu là tháp cao nhất châu Á và tháp cao thứ 3 thế giới. Sau chuyến đi này, tôi đã viết chùm ký sự nhiều kỳ: “Sàng khôn xứ người” đăng trên báo điện tử VietNamNet.
Ba mươi năm, với lịch sử chỉ là khoảnh khắc, nhưng cũng như mỗi học trò trường Phan chúng tôi đã đi được những chặng đường khá dài. Đó không chỉ là những cuộc khám phá, mở mang tầm nhìn, mà đó còn là sự trưởng thành về mọi mặt. Sự lớn lên của mỗi con người hôm nay, có cội nguồn từ những tri thức mà các thầy giáo cô giáo đã trang bị cho học trò thời còn học phổ thông.
Nhân dịp nửa thế kỷ trường Phan Đăng Lưu, xin được bày tỏ lòng biết ơn với bao thế hệ thầy giáo cô giáo đã mang hết nhiệt huyết để đào tạo nên những thế hệ học trò như chúng tôi. Những kỷ niệm xưa vẫn không bao giờ cũ, bởi nó vẫn có mặt trong đời sống của ngày hôm nay.
  • Phan Thế Hải

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Mời sự đóng góp ý kiến của các bạn
Thanh thật cám ơn