28.4.11

Nhung nghich ly lich su cua the ky 20


April 28, 2011
Ai yêu nước mà giam người yêu nước
Ai lấy ngục tù để giết chết tự do
Ai rước ngoại nhân bằng vạn tiếng hoan hô
Ai nô lệ mà tưởng mình tự chủ.
(không nhớ tên tác giả –
gặp trong trại tị nạn Thái Lan)
 

ĐỂ GIỚI THIỆU

Không có một logic nào có thể giải thích được những nghịch lý lịch sử Việt Nam của thế kỷ thứ 20. Chỉ có sự nhận thức về những nghịch lý lịch sử mới có thể hiểu được dòng lịch sử kỳ lạ nhất trong chiều dài 5,000 năm lịch sử của dân tộc.Lòng yêu nước không đóng khung trong một đảng phái hay trào lưu lịch sử nào mà nó biến thiên không chừng. Yêu nước biến thành tay sai và tay sai biến thành yêu nước. Nhưng tay sai vẫn có thể vĩnh viễn là tay sai, và yêu nước vẫn mãi mãi là yêu nước. Và thêm vào đó, xuất hiện thành phần yêu nước giả, thành phần cơ hội, yêu nước ở  hình thức, vong thân ở nội dung. Trong tay sai có yêu nước, trong yêu nước có tay sai, trong yêu nước có cơ hội v.v..

ĐI TÌM HỒN SỬ

Thế kỷ thứ 20 là trang sử phức tạp nhất trong dòng lịch sử Việt Nam. Tính phức tạp của thế kỷ 20 bắt nguồn từ những biến động lịch sử liên tục suốt 500 năm qua.
Cuối thế kỷ 15, địa lý Đại Việt dưới triều vua Lê Thánh Tông được mở rộng đến kinh đô Đồ Bàn. Cuộc nam chinh của Lê Thánh Tông đã chấm dứt hoạ xâm lăng của Chiêm Thành và đồng thời sát nhập Chiêm Thành vào lãnh thổ Đại Việt. Lê Thánh Tông tiếp tục phát triển công nghệ quốc phòng được xây dựng từ cuối đời nhà Trần, khuyếch trương dưới thời nhà Hồ và được Lê Thái Tổ khai dụng để trở thành sức mạnh quân sự trong công cuộc kháng chiến chống quân Minh. Nông nghiệp và công nghệ quốc phòng trở thành nền tảng kinh tế cho việc phát triển quốc gia. Sức mạnh kinh tế và quân sự của Đại Việt đã ảnh hường đến tận Thái Lan, Miến Điện, bán đảo Malacca[1].
Nhưng sau Lê Thánh Tông,  nhà Lê suy sụp. Đất nước bắt đầu một chuỗi nội chiến khốc liệt.  Từ biến động cung đình đưa Mạc Đăng Dung lên ngôi, đến cuộc chiến tranh Lê-Mạc, sự thành lập chính quyền vua Lê chúa Trịnh, đến chiến tranh Trịnh Nguyễn, cuộc nam tiến của chúa Nguyễn mở rộng địa lý Đại Việt đến Cà Mau, đến thời kỳ Tây Sơn diệt Trịnh Nguyễn, đến thời kỳ Quang Trung đại thắng quân Thanh, đến giai đoạn anh em Tây Sơn đánh nhau, rồi chiến tranh Tây Sơn-Nguyễn Ánh, đến thời kỳ Gia Long thống nhất giang sơn, rồi đất nước bị Pháp thuộc, đến công cuộc kháng chiến chống Pháp, phong trào Cần Vương, phong trào Văn Thân, sự hình thành các đảng phái cách mạng,  đến thời kỳ độc lập, quốc-cộng phân tranh, thời kỳ Cộng Sản thống nhất đất nước, công cuộc cải tạo xã hội với đấu tranh giai cấp để cộng sản hóa đất nước, rồi đổi mới, đến sự hình thành phong trào dân chủ …
Năm trăm năm thoáng qua như một chớp mắt.
Năm trăm năm lịch sử đó đổ dồn về thế kỷ 20 với một đất nước tan hoang, một dân tộc ly tán.  Một đất nước bị mất chủ quyền về tay người Pháp. Một triều đình nhà Nguyễn hấp hối trong đại vận suy vong của dân tộc Việt. Một Việt Nam độc lập ra đời giữa các thế lực quốc tế.  Lòng yêu nước, tinh thần nô lệ, ý thức độc lập,  tinh thần dân tộc, chủ nghĩa Mác Lê, cuộc cách mạng vô sản,  nghĩa vụ quốc tế, nền chính trị độc tài, khát vọng độc lập, tự do dân chủ,  quấn quyện vào nhau đầy nghịch lý để làm nên một Việt Nam thế kỷ 20.
Việt Nam bước vào thế kỷ 21 với trái tim rướm máu của hàng bao thế hệ thao thức cho một Đaị Việt phục hưng, cường thịnh đầy ắp tình tự dân tộc và tình nhân loại.
Từ giấc mơ Quang Trung đến những thao thức của Bùi Viện,  Nguyễn Trường Tộ, Nguyễn Lộ Trạch đến nỗi bất hạnh của Duy Tân, Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, Nguyễn Thái Học, kéo dài đến Hoàng Minh Chính, Nguyễn Hộ, Trần Độ, hoà lẫn với thế hệ Trần Văn Bá,  Đoàn Viết Hoạt, Nguyễn Đan Quế, Hà Sĩ Phu, Bùi Minh Quốc, Tiêu Dao Bảo Cự, Nguyễn Thanh Giang, Trần Khuê và cho đến ngày nay với Phạm Hồng Sơn, Nguyễn Văn Đài, Lê Thị Công Nhân, Lê Nguyên Sang, Nguyễn Bắc Truyển, Trần Huỳnh Duy Thức, Lê Công Định, Nguyễn Tiến Trung, Đoàn Huy Chương, Trần Khải Thanh Thủy và gần đây là Cù Huy Hà Vũ cùng với bao nhiêu người khác.
Lòng yêu nước như một sợi chỉ xuyên suốt hàng bao thế hệ để làm nên lịch sử cho dân tộc.  Và chỉ có thể đứng trên chính mạch lịch sử dân tộc, thế hệ chúng ta mới có thể nhận được tín hiệu của sử mệnh, mới nghe được tiếng réo gọi của hồn sử để tiếp nối sứ mệnh lịch sử của cha ông, và để cùng đứng lên làm nên một nước Đại Việt mới của thế kỷ 21.
PHAN SÀO NAM-PHAN CHU TRINH VÀ TRUNG TÂM VẬN ĐỘNG LỊCH SỬ THẾ KỶ 20
Phan Chu Trinh (1872–1926)
Sau khi vua Duy Tân bị bắt đày ra đảo Reunion năm 1916, phong trào chống Pháp chuyển từ Cần Vương sang một giai đoạn mới. Đó là giai đoạn các sĩ phu nho gia và các trí thức tân học yêu nước đứng ra chủ động công cuộc đánh Pháp giành độc lập.
Ở mặt tầng xã hội, quan lại triều đình Huế ở Trung và Bắc kỳ cùng với lực lượng đốc phủ sứ của chính quyền thuộc địa ở Nam kỳ trở thành công cụ tay sai phục vụ chế độ thực dân Pháp.Trong khi đó một cuộc vận động chống Pháp giành đôc lập được thành hình trong đáy tầng dân tộc. Cuôc vận động nầy chối bỏ giá trị và vai trò lịch sử mặt tầng của triều đình Huế.   Sau hoàng đế Duy Tân, trục tâm của lịch sử dân tộc đã chuyển dịch từ triều đình Huế sang phong trào cách mạng chống Pháp.  Do đó, cuộc kháng chiến chống Pháp đã trở thành trung tâm vận động lịch sử mới và đã làm nên lịch sử Việt Nam ở thế kỷ 20. Vì thế, đứng trên sử quan dân tộc, vua Duy Tân là vị vua chính thống cuối cùng của nhà Nguyễn. Đồng thời tính chính thống lịch sử của triều đình Huế đã bị thay thế bởi công cuộc vận động chống Pháp giành độc lập của đáy tầng quốc dân.
Tinh thần chống Pháp giành độc lập của vua Duy Tân được tiếp nối bởi hai nhà chí sĩ họ Phan:  Phan Bội Châu và Phan Chu Trinh. Hai nhà ái quốc lớn, sáng rực ở đầu thế kỷ thứ 20 với chủ trương khác nhau trong công cuộc giành độc lập cho nước nhà, nhưng thống nhất với nhau trong tình nghĩa dân tộc Việt, và yểm trợ cho nhau trong công tác cứu nước.
Phan Sào Nam là lãnh tụ tối cao của cách mạng dân tộc Việt. Việt Nam Quang Phục Hội, là tổ chức cách mạng dân tộc đầu tiên có tổ chức, có huấn luyện và kỹ thuật hiện đại, xây dựng được tổ chức trong nước lẫn ngoài nước. Việt Nam Quang Phục Hội với Trần Cao Vân và Thái Phiên là tổ chức đứng đàng sau cuộc khởi nghĩa của vua Duy Tân.
Phan Chu Trinh là cha đẻ của phong trào dân chủ và dân quyền tại Việt Nam. Ông đã gieo những hạt giống dân chủ đầu tiên tại Á Châu trước gót giày xâm lược của Tây Phương. Ông là một trong những học giả Á Châu đầu tiên chủ trương đấu tranh giành độc lập bằng con đường bất bạo động.  Mãi những thập kỷ sau tại Ấn Độ mới xuất hiện một Gandhi quãng hoá phương thức đấu tranh mới lạ đó.
Phan Bội Châu và Phan Châu Trinh đã mở ra bước ngoặc của dòng lịch sử và vạch ra con đường sống mới cho dân tộc khi triều đình Huế trở thành tay sai cho thực dân Pháp.Khi toàn dân đứng lên hưởng ứng phong trào chống thuế cắt tóc ngắn ở Quảng Nam, vua quan triều đình Huế đứng về phía thực dân Pháp chém ngang lưng nhà cách mạng Trần Quí Cáp, xử trãm Trần Cao Vân và Thái Phiên. Người vợ trẻ của Thái Phiên đã lấy vạt áo dài hứng đầu chồng phóng lên ngựa chạy trốn truy kích của quan quân triều đình, để đầu chồng không phải bị triều đình đem về bêu ở xứ Quảng.
Bao nhiêu bi kịch đẫm máu đã xảy ra trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp mà những người yêu nước đã bị triều đình Huế và thực dân Pháp đàn áp.  Chính những dòng máu đó của đáy tầng Việt  đã phủ định giá trị chính thống của triều đình Huế và chính những dòng máu yêu nước đó đã viết nên trang sử mới của thế kỷ 20.
SỰ PHÂN HÓA CỦA DÒNG CÁCH MẠNG VIỆT
Công cuộc kháng chiến chống Pháp không phải chỉ đối đầu với người Pháp và cả một hệ thống chính quyền do những người Việt làm tay sai từ nam đến bắc.  Đặc biệt, dưới chế độ bảo hộ ở trung và bắc kỳ, thực dân Pháp có thêm guồng máy chính quyền từ trung ương đến địa phương của triều đình Huế làm trợ thủ.  Cho đến đầu thế kỷ thứ 20 hệ thống cai trị của Pháp đã có những dòng họ Việt Nam nhiều đời trung thành với chế độ thực dân và làm cho nền móng cai trị của thực dân vững vàng hơn.  Chính vì thế, công cuộc kháng chiến càng ngày càng gian nan.
Từ đầu thế kỷ thứ 20 các nhà cách mạng Việt Nam đã tìm đường ra nước ngoài để vận động thế giới tìm đường giải phóng đất nước.  Phong trào Đông Du tuyển lựa các thanh niên ưu tú gởi qua Nhật Bản để được huấn luyện.  Một số thanh niên tìm đường xuất dương sang Pháp. Những thanh niên trẻ tuổi thế hệ 1910, 1920, 1930  phải đối diện với một thế giới tràn đầy những trào lưu tư tuởng triết học với mô hình chính trị và xã hội mới. Từ cuộc cách mạng Tân Hợi của Tôn Văn 1911, đến cuộc cách mạng Nga 1917, sự nổi dậy của chế độ Quốc Xã ở Đức, cùng với di sản của cuộc cách mạng dân chủ Mỹ và dân chủ Pháp. Bên cạnh đó, họ phải chứng kiến một Nhật Bản thay đổi từ một đất nước hiền hoà hiếu khách thành một đất nước quân phiệt hiếu chiến, hiếu sát sau khi công cuộc hiện đại hoá thành công.  Họ choáng ngợp, bất ngờ trước những khám phá mới.
Người thanh niên Nguyễn Tất Thành mới cầm bản“Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và dân tộc thuộc địa” của Lênin khi ngồi một mình trong buồng, chẳng biết mô tê gì về chủ nghĩa cộng sản, tiếng Pháp chưa rành, tiếng Nga chưa biết, mà đã cho đấy là sách lược duy nhất để giải phóng đất nước. Và rồi chỉ có thế mà một số thanh niên lao đầu vào chủ nghĩa Cộng Sản. Họ  không biết cái chủ nghĩa ấy có ngày sẽ đưa đất nước vào quỉ đạo của thế giới của những tay đồ tể giết đồng loại kinh hoàng nhất trong lịch sử nhân loại, và có ngày hàng trăm ngàn đồng bào ruột thịt của mình sẽ bị giết bởi chính bàn tay của mình. Họ cũng không ngờ có ngày họ tôn thờ tội ác giết đồng loại và đồng bào như một sứ mệnh thiêng liêng của một tôn giáo, như bài thơ của Tố Hữu:
“Giết giết nữa bàn tay không phút nghĩ,
cho ruộng đồng luá tốt thuế mau xong,
cho đảng bền  lâu rợp bước chung lòng,
thờ Mao chủ tịch thờ Xít Ta Lin bất diệt”.
(Tố Hữu)
Cho đến bây giờ chúng ta cũng không hiểu được sự điên cuồng của thế hệ cha ông theo cộng sản ở thế kỷ 20.Sau khi Phan Châu Trinh qua đời năm 1926 và Phan Bội Châu bị bắt và an trí ở Huế năm 1925 (không cách triều đình Huế bao xa),  cách mạng VN đã chia ra hai dòng chính :
(1) Những người yêu nước theo chủ nghĩa Mác Lê với Hồ Chí Minh, Trần Phú, Lê Hồng Phong, với những đảng phái cộng sản như An Nam Cộng Sản Đảng, Tân Việt Cách Mạng Đảng, Đông Dương Cộng Sản Đảng, đảng Lao Động và hiện nay là đảng Cộng Sản Việt Nam (CSVN). Những tổ chức nầy đi theo phong trào Đệ tam quốc tế cộng sản, chịu ảnh hưởng của Lenin, Stalin và sau nầy Mao Trạch Đông. Ngoài ra còn có Tạ Thu Thâu, Phan Văn Hùm, Phan Văn Chánh, Trần Văn Thạch cùng các đồng chí theo phong trào Đệ tứ quốc tế Trotskyist;
(2) Những người yêu nước theo lập trường quốc gia với Nguyễn Thái Học, Vũ Hồng Khanh, với Việt Nam Quốc Dân Đảng chịu ảnh hưởng của tư tưởng tam dân chủ nghĩa của Tôn Văn và chính trị của Tưởng Giới Thạch, Trương Tử Anh với Đảng Đại Việt với học thuyết “dân tộc sinh tồn”, Nguyễn Tường Tam với Đại Việt Dân Chính. Huỳnh Phú Sổ với Dân Xã Đảng, xây dựng tinh thần dân tộc lấy bi trí dũng của Phật giáo và tứ ân làm nền tảng, Lý Đông A với Đại Việt Duy Dân, muốn làm cách mạng Việt trên tinh thần nhân bản và lấy người làm tiền đề triết học.
Năm 1930 các đảng cộng sản tại Đông Dương đã được Hồ chí Minh từ Liên xô trở về Trung Hoa đứng ra chủ trì công cuộc thống nhất và Đảng Cộng Sản Việt Nam ra đời.
Năm 1943  các đảng phái quốc gia gồm Việt Nam Quốc Dân Đảng, Đại Việt, Đại Việt Dân Chính và Đại Việt Duy Dân họp với nhau ở Liễu Châu, và đã thống nhất trở thành Đại Việt Quốc Dân Đảng, lấy tư tưởng duy dân của Lý Đông A làm kim chỉ nam hoạt động.  Tài liệu ký trình do Nguyễn Tường Tam soạn thảo với 5 chữ ký của Vũ Hồng Khanh, Nghiêm Kế Tổ, Nguyễn Tường Tam, S.H. (Trương Tử Anh?) và Lý Đông A, được bác sĩ Nguyễn Tường Bách, em trai út của Nguyễn Tường Tam, công bố  trong Hồi ký Nguyễn Tường Bách.  Tài liệu nầy hiện được ông Nguyễn Tường Thiết, con trai của Nguyễn Tường Tam lưu giữ.
CÁCH MẠNG THÁNG TÁM VÀ CHÍNH PHỦ LIÊN HIÊP
Tháng 5 năm 1940 Đức Quốc Xã chiếm đóng nước Pháp và dựng lên chính phủ Vichy do thống chế Petain làm tổng thống.  Trong thời gian đó, Đông Dương nằm dưới quyền lãnh đạo của chính phủ Vichy.
Năm 1940, Nhật Bản tấn công Đông Dương và nhanh chóng thỏa thuận được với chính quyền Vichy ở Pháp để Nhật toàn quyền cai trị Đông Dương. Tháng 3 năm 1945 Nhật lật đổ Pháp trên toàn bộ Đông Dương và thiết lập một chính quyền Bảo Đại bù nhìn với chính phủ do một nhà nho uy tín là Trần Trọng Kim đứng đầu.
Việt Minh (viết tắt của Việt Nam Độc lập Đồng minh Hội) do Hồ Chí Minh thành lập năm 1941 tại Trung Quốc với vai trò một mặt trận thống nhất dân tộc để giành độc lập. Tổ chức này do Đảng Cộng sản Đông Dương lãnh đạo. Tháng 12 năm 1944, đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân, lực lượng vũ trang của Việt Minh và tiền thân của Quân đội Nhân dân Việt Nam, được thành lập tại Cao Bằng.
Đầu năm 1945, Việt Nam rơi vào một tình trạng hỗn loạn. Chiến tranh đã làm kiệt quệ nền kinh tế, người Nhật chiếm lấy lúa gạo và các sản phẩm khác, bắt dân phá lúa trồng đay để phục vụ chiến tranh, cộng thêm thiên tai, nạn đói (Nạn đói Ất Dậu) đã xảy ra tại Bắc kỳ và Trung kỳ. Người ta ước tính rằng đã có khoảng hai triệu người chết vì nạn đói này[3].
Ngay sau khi Nhật Bản đầu hàng quân Đồng Minh, tình trạng chân không chính trị xảy ra tại Việt Nam.  Chính phủ Trần Trọng Kim-Bảo Đại không có thực lực lãnh đạo đất nước.  Các đảng phái Quốc Gia không tiên liệu đưọc thời cơ.  Trong khi đó lực lượng Việt Minh lợi dụng tình hình và đã tổ chức thành công cuộc cuộc biểu tình đòi lật đổ chính phủ Trần Trọng Kim tại Hà Nội.  Ngày 19 tháng 8 năm 1945, Hồ Chí Minh tuyên bố Việt Nam thống nhất và độc lập với tên gọi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và thành lập chính phủ lâm thời gồm đa số những đảng viên cộng sản.  Ngày 30 tháng 8 năm 1945 Bảo Đại chính thức thoái vị, trao ấn kiếm cho đại diện Việt Minh và Việt Nam chính thức chấm dứt nền quân chủ để thành lập chế độ cộng hoà.  Như thế sau vua Duy Tân, nhà Nguyễn như con bệnh đã chết não, tiếp tục sống bằng guồng máy trợ sinh (life support) của chế độ thực dân Pháp.  Khi bác sĩ rút ống, con bệnh mới hoàn toàn từ giả cõi đời.
Ngày 2 tháng 9 năm 1945, chính phủ lâm thời Việt Minh ra mắt quốc dân.  Chính phủ nầy tồn tại đến ngày 1-1-1946 đưọc thay thế bằng  chính phủ liên hiệp lâm thời được thành lập gồm những nhà cách mạng quốc gia và cộng sản.  Sau đó một hiến pháp dân chủ đầu tiên ra đời đó là hiến pháp 1946, xác định giá trị pháp lý khai sinh của nhà nước Việt Nam Dân Chủ Công Hoà.
Chính phủ Liên Hiệp Lâm Thời tồn tại rất mong manh giữa những mâu thuẩn nội tại giữa phe Quốc Gia và Cộng Sản, trong bối cảnh thực dân Pháp đang trở lại để tái lập chế độ thuộc địa với những người Việt yêu nước Pháp đang chầu chực để đón tiếp quan thầy cũ.
Chính phủ Liên Hiệp Kháng Chiến tồn tại cho đến khi biến cố Ôn Như Hầu xảy ra vào tháng 7 năm 1946.  Trong biến cố nầy ông Võ Nguyên Giáp chỉ huy lực lưọng Việt Minh tấn công cơ sở của Việt Nam Quốc Dân Đảng, giết nhiều đảng viên VNQDĐ và bắt được Nghiêm Kế Tổ và Phan Kích Nam.  Ngoài ra trong thời gian nầy các cơ sở kháng chiến của các đảng pháí Quốc Gia khắp nơi bị tấn công.  Lãnh tụ Đại Việt Trương Tử Anh, Đai Việt Duy Dân Lý Đông A bị thủ tiêu. Nguyễn Hải Thần và Nguyễn Tường Tam trốn thoát qua Trung Hoa.  Liên hiệp Quốc-Cộng chấm dứt.
Từ đó trở đi, cộng sản hoàn toàn nắm chính phủ, tiếp tục lãnh đạo công cuộc kháng chiến chống Pháp, xây dựng xã hội chủ nghĩa miền bắc, phát động và chỉ đạo chiến tranh miền nam sau khi đất nước chia đôi, và sau đó thống nhất đất nước.
GIẢI PHÁP BẢO ĐẠI 1948 VÀ SỰ XUẤT HIỆN LỰC LƯỢNG  QUỐC GIA  THÂN PHÁP 
Vua Bảo Đại (1913-1997) 

Sau thế chiến thứ hai, Liên Hiệp Quốc khuyến cáo các nước thực dân phải trao trả độc lập cho các nước thuộc địa. Mô hình Trusteeship[4] do tống thống Roosevelt để nghị được Liên Hiệp Quốc chấp thuận và Liên Hiệp Quốc đã thành lập Hội Đồng Giám Hộ (tạm dịch cho chữ Trusteeship Council[5]) để giúp các nước thuộc địa giành lại độc lập không đổ máu.  Tuy nhiên sau thế chiến thứ hai, thế giới bước vào giai đoạn chiến tranh lạnh giữa Liên Xô và Hoa Kỳ.  Do đó, tổng thống Truman thay đổi chiến lược và chấp nhận để Pháp trở lại Việt Nam nhằm ngăn chặn làn sóng Cộng Sản.  Nhờ đó, Pháp đã theo chân quân đội Anh và Trung Hoa đại diện đồng minh trở lại Đông Dương để tiếp thu khí giới và nhận sự đầu hàng của Nhật Bản.  Pháp âm mưu tái lập chính quyền thuộc địa để được bám vào bầu sữa Đông Dương nhằm thu hút tài nguyên để giúp cho mẫu quốc hồi sinh sau cơn đại nạn thế chiến.
Để đáp ứng yêu cầu Liên Hiệp Quốc giải thế chế độ thuộc địa đồng thời vẫn tiếp tục hưởng lợi ở Đông Dương, Pháp đưa ra chiến lược Việt Nam hoá chế độ thực dân theo mô hình bảo hộ, đã được áp dụng cho triều đình Huế theo hòa ước Paternotre. 
Khi thấy Pháp không thành thật trao trả độc lập cho Việt nam và bắt đầu tái lập chế đô thuộc địa, chính phủ Hồ Chí Minh tuyên bố toàn quốc kháng chiến vào ngày 19 tháng 12 năm 1946.
Trong khi đó, Pháp tập hợp các nhân sĩ Nam Kỳ trước đây trong chính quyền thuộc địa để thành lập nước Nam Kỳ tự trị nhằm tách miền Nam ra khỏi miền bắc và miền trung đang nằm dưới sự kiểm soát của chính quyền Việt Minh do Hồ Chí Minh lãnh đạo. Từ năm 1946 đến 1948 chính phủ “Nam Kỳ Quốc” cải tổ nhiều lần, song vẫn không được  ổn định và liên tiếp thất bại.  Quá trình thành lập chính phủ Nam Kỳ gồn các chính phủ như sau:
•    Chính phủ (lâm thời) ở Nam Kỳ (26 tháng 3, 1946-30 tháng 5, 1946)
•    Chính phủ lâm thời Cộng hòa Nam Kỳ tự trị (1 tháng 6, 1946-7 tháng 10, 1947)
•    Chính phủ lâm thời Nam phần Việt Nam (8 tháng 10, 1947-27 tháng 5, 1948)
Sau một thời gian ngắn tham gia chính phủ lâm thời kháng chiến VNDCCH với tư cách là một cố vấn chính phủ, Bảo Đại đào thoát qua Hồng Kông.  Năm 1948, các nhà cách mạng quốc gia gồmNguyễn Tường Tam, Nguyễn Tường Long, Vũ Hồng Khanh, cố gắng tiếp xúc để đưa ra giải pháp Bảo Đại, nhằm xây dựng một nước Việt Nam độc lập không Cộng Sản. Nhưng nỗ lực nầy không thành công.  Bảo Đại đã từ chối hợp tác với các đảng phái cách mạng quốc gia.
Khi chiêu bài Nam Kỳ Quốc thất bại, người Pháp đã nghĩ đến giải pháp Bảo Đại để chống lại phong trào kháng chiến giành độc lập của Việt Minh. Người trung gian của Pháp là Đại tá Nguyễn Văn Xuân. Vào giữa năm 1947, Nguyễn Văn Xuân được nhà nước Pháp phong quân hàm Thiếu tướng và ngày 8 tháng 10 năm 1947, ông được Hội đồng tư vấn Nam kỳ bầu vào chức vụ thủ tướng và thành lập chính phủ Nam Kỳ quốc, với tên mới là chính phủ Nam phần Việt Nam.
Qua trung gian Nguyễn Văn Xuân, Bảo Đại cố gắng thương lượng với Pháp về chủ quyền đất nước. Theo Thỏa ước Vịnh Hạ Long ngày 6 Tháng Chạp giữa Cao ủy Bollaert và Bảo Đại thì Pháp thừa nhận nước Việt Nam “độc lập” nhưng có điều kiện hạn chế về ngoại giao, quốc phòng và quy chế dân tộc thiểu số. Để xúc tiến việc trao trả độc lập hoàn toàn và sửa đổi những khoản trên, ngày 26 Tháng Ba, 1948 ở Hương Cảng Bảo Đại tuyên bố thành lập chính phủ trung ương của Quốc gia Việt Nam. Bốn người được đề cử làm thủ tướng lúc bấy giờ là Ngô Đình Diệm, Lê Văn Hoạch, Trần Văn Hữu và Nguyễn Văn Xuân nhưng Ngô Đình Diệm và Lê Văn Hoạch khước từ vì không tán thành nghị định thư của Thỏa ước Vịnh Hạ Long. Cuối cùng Trần Văn Hữu nhường cho Nguyễn Văn Xuân làm thủ tướng Chính phủ lâm thời Quốc gia Việt Nam.[1]
Đến ngày 5 tháng 6 năm 1948 thì tuyên cáo Hạ Long được chính thức ký kết, theo đó nước Pháp thừa nhận nền độc lập của Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Bảo Đại. Ngày 8 tháng 3 năm 1949, Tổng thống Pháp Vincent Auriol và Cựu hoàng Bảo Đại đã ký Hiệp ước Elysée, thành lập một chính quyền Việt Nam trong khối Liên hiệp Pháp, gọi là Quốc gia Việt Nam[6].
Thành phần quốc gia mới nầy là tập hợp quan lại triều đình Huế và công chức trong chính quyền thuộc địa, bị rơi vào tình trạng khủng hoảng lãnh đạo sau khi Bảo Đại thoái vị năm 1945.  Đến năm 1948 khi giải pháp Bảo Đại ra đời  thì thành phần nầy được phục hồi dưới danh xưng chính trị  là “thành phần Quốc gia.”   Một số nhà cách mạng chống Pháp trước đây như Vũ Hồng Khanh cũng tham gia vào chính phủ Bảo Đại nhưng họ chỉ đóng vai trò thứ yêú, và tạo sự chia rẽ trong hàng ngũ Việt Nam Quốc Dân Đảng.
Suốt từ năm 1948 đến 1954, các thủ tướng của Quốc Gia Việt Nam là những cựu viên chức hay nhân sĩ chính quyền thuộc địa trước đây, như thiếu tướng Nguyễn Văn Xuân, Nguyễn Phan Long, Nguyễn Văn Tâm, Trần Văn Hữu.  Đến năm 1954 tình hình quân sự suy sụp,  quân đội Pháp bị bao vây ở Điện Biên Phủ, và thất bại khắp nơi.  Bảo Đại phải chọn những người thuộc triều đình Huế để lèo lái đất nước.  Tháng giêng năm 1954, hoàng thân Bửu Lộc được chọn làm thủ tướng, và đến tháng 6, 1954, Ngô Đình Diệm, vốn là cựu thượng thư và là nhà bất đồng chính kiến dưới thời Pháp thuộc, được chọn để thay thế cho Bửu Lộc.
Năm 1954 Pháp đầu hàng Việt Minh ở Điện Biên Phủ.  Hiệp Định Genève năm 1954 chia đôi Việt Nam lấy vĩ tuyến 17 làm ranh giới.  Miền Bắc thuộc thẩm quyền của Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà dưới sự lãnh đạo của chủ tịch Hồ Chí Minh và đảng Cộng Sản Việt Nam (tên chính thức là đảng Lao Động).  Miền Nam thuộc thẩm quyền của Quốc Gia Việt Nam dưới sự lãnh đạo của quốc trưởng Bảo Đại.
Cuộc chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất 1946-1954 là cuộc chiến giữa chính phủ Việt Minh và chính phủ Pháp với sự trợ lực của chính phủ Quốc Gia Việt Nam đứng đầu là quốc trưởng Bảo Đại do Pháp nặn lên.  Khi Pháp thất trận ở Điện Biên Phủ, họ đã trao trả độc lập cho chính quyền Bảo Đại.
Nói tóm lại, năm 1948, Bảo Đại đã đánh mất cơ hội tái lập lại tính chính thống của triều đình Huế khi ông từ chối hợp tác với các đảng phái Quốc gia chống Pháp.  Quyết định của Bảo Đại bác bỏ để nghị của Nguyễn Tường Tam, Hoàng Đạo để thành lập chính phủ Quốc gia là một thất bại lịch sử.  Sự hợp tác của Bảo Đại với Nguyễn Văn Xuân là sự tiếp nối tính bất chính thống của Bảo Đại và triểu đình Huế, và tạo ra một nghịch lý lịch sử cho miền Nam sau nầy.
Hồ Chí Minh (1890- 1969). Ảnh chụp năm 1949 

CÁC ĐẢNG PHÁI QUỐC GIA TRONG “GỌNG KỀM LỊCH SỬ”
Sau khi đã củng cố được quyền lực trong chính phủ liên hiệp, CSVN đã bắt đầu tiêu diệt  các lực lượng đối lập.  Đây là lần đầu tiên trong lịch sử giành độc lập các đảng phái yêu nước phải dùng bạo lực đẻ tiêu diệt lẫn nhau.
Ở miền bắc, sau khi đất nước chia đôi, VN Quốc Dân Đảng được coi như là kẻ thù của cách mạng và bị truy lùng ráo riết.  Sau đó, toàn bộ VN Quốc Dân Đảng ở miền Bắc hoàn toàn bị tiêu diệt.  Nhiều người yêu nước tham gia Việt Minh bị qui oan là Quốc Dân Đảng cũng bị xử tử trong cuộc Cải Cách Ruộng Đất.
Trong thời gian đó, tại miền nam, nhóm trí thức Trotskyist cũng không thoát khỏi bàn tay nối dài của Stalin qua các đảng viên Cộng Sản đệ tam quốc tế địa phương.  Các nhà cách mạng yêu nước đệ tứ quốc tế lần lượt bị đảng CSVN ám sát và thủ tiêu.
Từ 1945 đến 1949, các lãnh đạo đảng phái không cộng sản đã lần lượt bị cộng sản thủ tiêu, ám sát hay làm mất tích.  Đáng để ý là các nhân vật sau đây:
- Trương Tử Anh – đảng trưởng Đại Việt và là đảng trưởng của tổ chức các đảng phái quốc gia thống nhất là Đại Việt Quốc Dân Đảng
- Khái Hưng tức Trần Khánh Giư, Nhượng Tống, Phan Kích Nam
- Tạ Thu Thâu, Phan Văn Hùm
- Lý Đông A, lãnh tụ Đại Việt Duy Dân
- Huỳnh Phú Sổ – sáng lập Phật giáo Hoà Hảo và chủ tịch Việt Nam Dân Xã đảng.
Trong khi đó ở  miền Nam, sau khi thủ tướng Ngô Đình Diệm chấp chánh, tức là sau năm 1954, các đảng phái cách mạng và các tổ chức yêu nước như Phật giáo Hoà Hảo, Cao Đài, Đại Việt, Quốc Dân Đảng cũng bị chính quyền Ngô Đình Diệm dẹp tan.   Đệ tử của Đức thầy Huỳnh Phú Sổ là Ba Cụt Lê Quang Vinh bị án tử hình, đức hộ pháp Phạm Công Tắc của Cao Đài bị bức bách phải lánh nạn sang Cao Miên và qua đời tại đó.  Đảng Đại Việt lập chiến khu Ba Lòng, tỉnh Quảng Trị.  Quốc Dân Đảng lập chiến khu Nam Ngãi.  Nhà cách mạng Nguyễn Tường Tam đã quyên sinh để phản đối chính quyền Ngô Đình Diệm đàn áp tự do dân chủ.  Nhiều nhà cách mạng ở miền Nam đã bị xử án tù ở Côn Đào.
Nói chung, sau khi đất nước chia đôi, các lực lượng dân tộc yêu nước thời kỳ kháng chiến chống Pháp đã bị đàn áp ở cả hai miền Nam, Bắc.

TÌNH HÌNH MIỀN BẮC SAU HIỆP ĐỊNH GENÈVE (20-7-1954)
Sau khi chia đôi đất nước, ở miền bắc, Đảng Lao Động (CSVN) bất chấp lời hứa tôn trong quyền tư hữu trong hiến pháp 1946 của chính phủ Hồ Chí Minh, bắt đầu đưa cách mạng vô sản của Stalin và Mao Trạch Đông vào xã hội.
Cuộc Cải Cách Ruộng Đất được mô tả là “ngày long trời đêm lở đất”,  là một thất bại thê thảm của  chính  sách áp dụng chuyên chính vô sản để cải tạo một xã hội vừa mới thoát khỏi ách nộ lệ thực dân Pháp.  Hậu quả là hàng trăm ngàn nạn nhân bị tướt đoạt tài sản, nhiều người bị xử tử vì có tài sản và nhiều người yêu nước bị giết chết vì bị vu cáo là Quốc Dân Đảng.  Tiếp theo đó, vụ án Nhân Văn – Giai Phẩm, bịt miệng tiếng nói đòi dân chủ trong giới trí thức và văn nghệ.
Trước những thất bại của các chính sách cộng sản tại miền Bắc, nội bộ đảng CS có nguy cơ phân hoá.  Hồ chí Minh,  Lê Duẫn và Lê Đức Thọ đã nhanh chóng tiêu diệt những tiếng nói cải cách  qua “Vụ Án Xét Lại”.  Đảng CSVN phải một lần nữa phất lên ngọn cờ dân tộc, xây dựng guồng máy chiến tranh, tiến hành cuộc chiến thống nhất đất nước với sự yểm trợ của Liên Xô  và Trung Quốc.
Từ năm 1960, với sự thành lập Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam (MTDTGPMN), guồng máy  chiến tranh miền Bắc nuốt trọn thế hệ thanh niên dưới ngọn cờ đảng, ngọn cờ dân tộc, ngọn cờ tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
TÌNH HÌNH MIỀN NAM SAU HIỆP ĐỊNH GENÈVE (20-7-1954)
Sau thế chiến thứ hai, chủ nghĩa thực dân bắt đầu cáo chung.  Tuyên ngôn Quốc Tế Nhân Quyền ra đời năm 1948 bảo đảm quyền con người và và Liên Hiệp Quốc chủ trương giải thể chế độ thực dân và bảo đảm quyền tự quyết dân tộc.
Kế hoạch tái lập chế độ thuộc địa của Pháp bị trở ngại vì trật tự thế giới mới ra đời sau thế chiến thứ hai và chế độ thực dân trên toàn thế giới trên đường cáo chung.  Trong khi đó, Pháp bị kiệt quệ vì thế chiến thứ hai và đối thủ của Pháp ở Việt Nam ngày nay không còn là một Việt Nam hèn kém ở thé kỷ 19, mà là Việt Nam được trang bị bởi lòng yêu nước cao độ với những ngưòi cộng sản được Stalin huấn luyện từ những năm 1930. Thêm vào đó, tình hình chiến sự tại Việt Nam thay đổi sau khi Mao Trạch Đông chiếm xong lục địa năm 1949.  Từ đó trở đi, các lực lượng Việt Minh được huấn luyện quân sự ở Trung Quốc trước khi trở về Việt Nam và được tăng cường võ trang với cố vấn quân sự Trung quốc trực tiếp tham gia chiến trường.  Do đó, sau khi bị sa lầy ở Điện Biên Phủ năm 1954 Pháp phải quyết định chấm dứt giấc mơ thuộc địa ở Đông Dương.
Với Trung Quốc là quốc gia đông dân nhất thế giới trở thành cộng sản, cuộc chiến tranh lạnh trở thành gay gắt và Hoa Kỳ quyết định ngăn cản bước tiến của cộng sản xuống Đông nam Á.  Do đó, khi Pháp rút chân ra khỏi Đông Dương, Hoa Kỳ nhảy vào cuộc để chận đứng phong trào cộng sản quốc tế.
Thủ tướng Ngô Đình Diệm chấp chánh Quốc Gia Việt Nam năm 1954 trong bối cảnh thế giới chuyển đổi từ đối kháng giữa chế độ thuộc địa và phong trào độc lập sang đối kháng giữa tự do và Cộng Sản.
Sau thời gian xáo trộn của tình hình chính trị trong thời kỳ chuyển tiếp, tổng thống Ngô Đình Diệm ổn  định được chiến tranh đảng phái ở miền Nam.  Đồng thời sau hiệp định Genève, quân đội Pháp cũng rút khỏi Đông Dương và miền Nam hoàn toàn được độc lập.
Nền độc lập của miền Nam là một bất ngờ lịch sử.  Một nền độc lập do vận động quốc tế trong bối cảnh biến đổi của thế giới sau thế chiến thứ hai.  Một nền độc lập không đổ máu trao quyền lực cho lực lượng Quốc Gia thân Pháp để lãnh đạo miền nam Việt Nam.
Sau cuộc trưng cầu dân ý truất phế Bào Đại năm 1955, Ngô Đình Diệm tuyên bố thành lập nền Cộng hòa và trở thành tổng thống đầu tiên của Việt Nam Cộng Hoà.
Với sự viện trợ dồi dào của Hoa Kỳ, Việt Nam Cộng Hoà đang vươn mình lên để phát triển.  Về kinh tế,  thập 1950-1960, VNCH là quốc gia sản xuất lúa gạo hàng đầu trên thế giới, có lợi tức GDP cao hơn nhiều nước Á châu trong vùng (Theo UN Statiscal Year Book for Asia 1969, năm 1957 GNP per capita của VNCH là USD$ 158 trong khi South Korea là USD$ 46.12).
Những ổn định và thành tựu của miền Nam  bắt đầu bị lung lay bởi guồng máy chiến tranh ở Hà Nội và  được điều khiển từ xa bởi Moscow và Bắc Kinh.  Những cán bộ cao cấp của CS bắt đầu xâm nhập miền Nam, đứng ra chỉ đạo công cuộc gây rối chính trị ở miền nam.
Mặc khác tổng thống Ngô Đình Diệm, dù là một người yêu nước, vẫn thiếu bề dày cách mạng để đối phó  với Hồ Chí Minh và cán bộ Cộng sản được huấn luyện làm cách mạng chuyên nghiệp với sự yểm trợ tài chánh dồi dào của Matcơva để phục vụ cho phong trào cộng sản quốc tế từ năm 1925.  Mặc dầu TT Ngô Đình Diệm cố gắng xây dựng nền dân chủ, ông vẫn còn thiếu kinh nghiệm làm việc với đối lập.  Cái chết của nhà cách mạng Nguyễn Tường Tam, một người được toàn dân yêu mến vì những hy sinh và đóng góp to lớn của ông cho văn hoá dân tộc và công cuộc chống Pháp, đã làm cho giá trị tinh thần của chính quyền suy sập.
Từ năm 1960 tình hình chiến sự gia tăng khi Hà Nội thành lập Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam và xã hội miền nam bắt đầu bị xáo trộn về vấn đề tôn giáo.  Vụ tự thiêu của hoà thượng Thích  Quảng Đức đã làm cho tổng thống Diệm mất sự ủng hộ của Phật giáo, chiếm đa số quân chúng.  Tranh  chấp tôn giáo tạo ra một khoảng chân không chính trị dễ dàng bị cộng sản lợi dụng, để xâm nhập vào hàng ngũ lãnh đạo Phật Giáo.
Cuộc chính biến 1-11-1963 chấm dứt chính quyền Ngô Đình Diệm.  Sau cuộc đảo chánh, miền Nam hoàn  toàn rơi vào xáo trộn chính trị do các tướng lãnh thay nhau tranh giành quyền lực.  Sau đó guồng máy chính quyền  miền Nam đã được quân sự hoá, để đối phó với chiến tranh đang càng ngày càng leo thang.
Sau năm 1963, các đảng phái chính trị quốc gia chống Pháp như Đại Việt, Việt Nam Quốc Dân đảng được phép hoạt động trở lại ở miền Nam, nhưng đến lúc đó chính quyền đã bị quân sự hoá để đối phó với chiến tranh.  Vai trò của quân đội trở nên trọng yếu làm giảm đi vai trò của các đảng phái chính trị.
(Đón đọc phần 2 ngày 30/4/2011)
Nguyễn Xuân Phước

Không có nhận xét nào: