28.6.11

VIỄN CẢNH CHIẾN TRANH BIỂN ĐÔNG VÀ VẤN ĐỀ ĐỒNG HÀNH VỚI DÂN TỘC.

VIỄN CẢNH CHIẾN TRANH BIỂN ĐÔNG VÀ
                                             VẤN ĐỀ ĐỒNG HÀNH VỚI DÂN TỘC.

        Nguyễn Cao Quyền
          Tháng 6 năm 2011


 Trước sức tấn công mãnh liệt của “làn sóng dân chủ” thứ tư vào Bắc Phi và Trung Đông, Trung Quốc lo sợ cho vấn đề chính danh lãnh đạo.  Khi ý thức hệ Marx đã lui vào dĩ vãng, những người cộng sản ngồi trong Trung Nam Hải hiện nay đã hiểu rằng chính danh cai tri ̣ của họ chỉ còn đựa vào vấn đề phát triển kinh tế.   Sự “sống còn” của Đảng Cộng Sản Trung Quốc ĐCSTQ  là ở vấn đề này.
 Kinh tế càng phát triển thì nhu cầu tiêu thụ năng lượng càng cao.  Nếu không duy trì được khả năng cung cấp năng lượng thì sự thịnh vượng kinh tế sẽ không thể kéo dài.  Bài học này, Bắc Kinh đã được các chuyên gia nhắc nhở và cảnh báo nhiều lần, và nay đã trở thành hiện thực.
 Trung Quốc bắt đầu phải nhập cảng dầu hỏa từ năm 1993 và đã đầu tư rất nhiều tiền của ở khắp nơi trên thế giới, đặc biệt là ở vùng Trung Đông, đề bảo đảm sự cung cấp dầu hỏa mà tương lai kinh tế đòi hỏi.
 Có hai vấn đề liên quan đến nhu cầu dầu hỏa của Trung Quốc cần lưu ý: vấn đề khối lượng dự trữ dầu hỏa ở Biển Đông và vấn đề đầu tư dầu hỏa ở Bắc Phi và Trung Đông .
 Vấn đề khối lượng dự trữ dầu hỏa ở Biến Đông
 Giờ đây ai cũng biết là Biển Đông có một khối lượng dự trữ dầu hỏa khổng lồ.  Các chuyên gia Nga tính khối lượng dự trữ có thể lên tới 60 tỹ thùng.   Chuyên gia Trung Quốc còn lạc quan hơn và đưa ra con số 150 tỷ thùng.   Khối lượng dự trữ này nằm ở vùng quần đảo Trường Sa.  Quần đảo này có rất nhiều đảo và bãi đá ngầm rải rác trên một diện tích rộng lớn của Biển Đông bao quanh bởi một số quốc gia như Việt Nam, Mã Lai Á, Brunei, Nam Dương, Phi Luật Tân, Đài  loan.
 Lãnh hải của Trung Quốc không tiếp giáp với vùng biển có dầu này, nhưng sau khi xâm chiếm bất hợp pháp quần đảo Hoàng Sa (Paracels) của VNCH vào năm 1974 và một số đảo bãi khác trên quần đảo Trường Sa (Spratleys) của CHXHCNVN vào năm 1988, Bắc  Kinh tự coi mình có chủ quyền trên khắp Biển Đông.  Lẽ cố nhiên là trước một thái độ ngang ngược như vậy, tranh chấp phải xảy ra và trên thực tế đang xảy ra.  Ý đồ của Trung quốc coi Biển Đông như “ao nhà”, để chiếm đoạt khối lượng dầu hỏa dự trữ dưới lòng biển, đang gặp phản ứng quyết liệt của Hoa Kỳ và các quốc gia vùng Á Châu-Thái Bình Dương.
 Tháng 3/2010 phụ tá bộ trưởng ngoại giao Trung Quốc Cui Tian Cai nói cho hai viên chức cao cấp của chính quyền Obama rằng Bắc Kinh coi Biển Đông là “quyền lợi cốt lõi” (core interest) ngang hàng với Đài Loan, Tây Tạng và Tân Cương. 
 Với các căn cứ quân sự xây dựng và phối trí khắp Biển Đông, từ các đảo Phú Lâm, Quan Hòa, Linh Côn, Tri Tôn của quần đảo Hoàng Sa, xuống tới mãi vùng đá ngầm Vành Khăn (thuộc quần đảoTrường Sa), Trung Quốc tự coi là đã có đủ sức mạnh để thách thứ Hoa Kỳ và thế giới về vấn đề chủ quyền ở Biển Đông. 
 Tại Hội Nghị Đối Thoại Shrangi-La ngày 29/5/2010, Bộ trưởng quốc phòng Mỹ Robert Gates nói cho phiá Trung Quốc hiểu rằng Mỹ sẽ bảo vệ các quyền lợi của Hoa Kỳ trên Biển Đông bằng sức mạnh.  Tại Hội Nghị An Ninh Khu Vực tổ chức tại Hà Nội ngày 24/7/2010 , ngoại trưởng Hillary Clinton tuyên bố là Hoa Kỷ coi sự tự do lưu thông trên toàn diện tích Biển Đông là lợi ích quốc gia và đòi hỏi các bên tranh chấp phải giải quyết bất đồng bằng thương thuyết như đã đồng ý trong bản Quy Tắc Hành Sử (DOC) ký kết năm 2002 . 
 Song song với những lời nói trên bàn Hội Nghị, Hoa Kỳ bắt đầu viện trợ và bán vũ khí cho một số quốc gia trong vùng Á Châu-Thái Bình Dương để bảo vệ chủ quyền lãnh hải .  Trong khối ASEAN, Nam Dương và Phi Luật Tân đã được Mỹ cam kết viện trợ huấn luyện quân sự.  Mã Lai Á đã mua 35 máy bay phản lực và 2 tàu ngầm  của Pháp; Úc Đại Lợi cũng sẽ có thêm 9 tàu ngẩm mới và 100  phản lực cơ F35 mua của Mỹ.  Ấn Độ đóng thêm một hàng không mẫu hạm và Đài Loan sẽ được Mỹ cung cấp máy bay và hỏa tiễn tối tân nhất.  Nhật Bản sẽ được tái vũ trang.  Một liên minh quân sự quốc tế được thành lập để dập tắt tham vọng bá quyền bành trướng của Bắc Kinh.
 Vấn đề Trung Quốc đầu tư về dầu hỏa ở Bắc Phi và Trung Đông.
Mùa xuân năm 2011 làn sóng dân chủ hóa thứ tư bắt đầu đổ bộ váo Bắc Phi và Trung Đông.  Sóng dân chủ đã lật đổ các chế độ độc tài Tunisia và Ai Câp trong vòng hai tuần lễ và tiếp tục tàn phá các chế độ độc tài khác trong vùng.  Tuy nhiên khi tấn công vào Libya và Syria, là hai vựa dầu hỏa trên bờ biển Địa Trung Hải thì cường độ của sóng xuống thấp vì diện tích tác động quá rộng. 
 Để tiếp sức cho làn sóng đang suy giảm cường độ, Hoa Kỳ và Tây Âu quyết định can thiệp.   Can thiệp để hất cẳng Nga Và Trung Quốc ra khỏi Địa Trung Hải vì Nga có có một căn cứ hải quân ờ Syria , còn Trung Quốc thì lăm le đe dọa vị thế lãnh  đạo của Hoa Kỳ.  Can thiệp để tránh phải đụng độ trực tiếp với Mạc Tư  Khoa và Bắc Kinh trong tương lai, đồng thời để lợi dụng chính danh bảo vệ “nhân quyền” vào lúc này, nhân danh nghị quyết 1973 của Liên Hiệp Quốc.
 Trung Quốc đầu tư năng lượng rất lớn  ở miền Đông Libya và thâm nhập sâu rộng vào Châu Phi để bảo đảm nhu cầu chiến lược này.  Khi Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế cho biết là trong vòng 5 năm nữa kinh tế Trung Quốc sẽ vượt lên trên kinh tế Mỹ thì Hoa Thịnh Đốn lấy làm khó chịu và muốn làm chậm lại sự phát triển của Bắc Kinh. 
Sau khi nghị quyết 1973 (3/2011) của LHQ được công bố, Mỹ đã đạo diễn và cung cấp vũ khí, tiền bạc cho các cuộc nổi dậy ở Libya, đặc biệt là tại khu vực dầu mỏ Benghazi, phía Đông thủ đô Tripoli.  Cuộc can thiệp của Mỹ vào Libya đã làm cho Trung Quốc mất nhiều tỷ đô la đầu tư vào 50 công trình năng lượng lớn.
Riêng đối với Kahdaffi, thật ra Hoa Kỳ chỉ muốn trừng phạt về tội đã từ chối không tham gia cơ cấu quân sự trực thuộc Bộ Chỉ Huy Châu Phi của Mỹ hành lập năm 2008 để đối phó với sự thâm nhập của Trung Quốc vào Châu Phi.   Hoa Kỳ tiếp sức cho làn sóng dân chủ hóa thứ tư để quật ngã những chế độ độc tài nguy hiểm đối với phong trào toàn cầu hóa và hiện đại hóa của nhân loại.
Tranh chấp Hoa-Việt ở Biển Đông.
Bị Hoa Kỳ đưa vào thế bí, Trung Quốc gia tăng khiêu khích ở Biển Đông để tạo áp lực buộc các quốc gia trong vùng và quốc tế nhìn nhận chủ quyền theo bản đồ “lưỡi bò” đã công bố.  Hướng chính của áp lực chĩa về phía Việt Nam.  Bắc Kinh tung ra lời đe dọa là chiến tranh sẽ có thể nổ ra giữa hai nước.  Trang mạng “Trung Quốc Binh Khí Đại Toàn” hô hào: “Hãy giết chết bọn giặc Việt Nam để làm lễ tế cờ cho trận chiến Nam Sa”.  Trước sự hăm dọa này Hà Nội ban hành luật tổng động viên. 
Nhiều báo ở Hong Kong (Đại Công Báo, Văn Hối) cho rằng nếu chiến tranh xảy ra chưa chắc Trung Quốc đã thắng nổi Việt Nam.   Các chuyên gia cũng báo động là cái giá mà Trung Quốc phải trả sẽ không lường trước được. 
Nếu Trung Quốc dùng binh lực đánh chiếm 21 đảo ở Trường Sa mà Việt Nam đang chiếm giữ thì hành động này sẽ là một thách thức ngiêm trọng đối với nền an ninh thế giới.  Hình tượng “phát triển trong hòa bình ” của Trung Quốc sẽ biến mắt dưới con mắt của nhân loại và phản ứng của cộng đồng dân chủ đối với Bắc Kinh sẽ vô cùng quyết liệt.  Ngay từ lúc này, Úc Đại Lợi đã đưa ra một học thuyết quân sự nói rằng: “Biển Đông là biên cương lợi ích của nước Úc”. 
Chỉ cần chiến tranh xảy ra thì  ngay lập tức tập đoàn NATO Biển Đông sẽ thành hình, lực lượng tự vệ trên biển của Nhật Bản cũng đi vào họat động và quân lực Hoa Kỳ liên minh với các nước ASEAN sẽ có mặt khắp nơi trong khu vực.
Nhìn bề ngoài, lực lượng quân sự của Trung Quốc vượt trội hơn quân lực của Việt Nam nhưng nếu xét về mặt thuận lợi chiến lược của địa hình thì ưu thế quân sự chưa chắc đã nghiêng về phía Bắc Kinh.  Trung Quốc chắc chắn sẽ đưa vào trận chiến hạm đội Nam Hải để uy hiếp.  Việt Nam không có nhiều tàu chiến nhưng lại có máy bay tốc độ cao  để nghênh chiến, tầu ngầm KILO.636 để trợ chiến, hỏa tiễn không đối hạm Bhramos của Ấn Độ và Yakhont của Nga để công phá.   Ngoài ra còn có hai tiểu đoàn phòng không đặt ở những vị trị tác chiến thuận lợi trên bờ biển.
Tất cả những hải đảo ở Trường Sa mà Việt Nam chiếm giữ hiện nay chỉ cách đất liền từ 400 đến 600 km.  Các căn cứ không quân Đà Nẵng, Cam Ranh, Saigon đều nằm trong tầm tác chiến của máy bay nên rất tiện cho phi cơ,  không phải tiếp tế săng dầu trên không phận.   Trung Cộng không có những điều kiện thuân lợi này.
Trước khi chiến tranh xảy ra các phi trường của Trung Quốc ở Hải Nam, Hoàng Sa, Toại Khê và Quế Lâm (Quảng Tây) chắc chắn sẽ bi tiêu diệt.  Các máy bay SU 30.MKV cuả VN sẽ làm được việc này.  Phi cơ MIG 21-BIS của VN sẽ chặn đánh các máy bay hết săng của Trung Quốc.  Trung Cộng phải chiến đấu qúa xa cho nên dù có chiếm được các hải đảo cũng khó giữ.  
Vấn đề đồng hành với dân tộc.
Trận chiến Việt-Hoa ở Biển Đông có xảy ra hay không, xét cho cùng chỉ là một sự tranh chấp giữa hai đảng cộng sản Việt Nam và Trung Quốc: cả hai bên đều vì quyền lợi sống còn của đảng chứ không phải vì lợi ích của hai dân tộc.
Đối với phiá VN, có thể nói quyền lợi của đảng cộng sản và quyền lợi của dân tộc  chưa bao giờ là những quyền lợi song hành.  Dân tộc đã bị đảng lợi dụng cho lợi ích riêng tư và lợi ích của ngoại bang trong suốt thời gian đảng xuất hiện và tồn tại trong lịch sử.   Kể từ biến cố quan trọng nhất là thời gian đánh Pháp, rồi qua những sự kiện chính trị tiếp theo như cải cách ruộng đất, chia đôi đất nước, xâm chiếm miền Nam, chiến tranh Campuchia và gần nhất là bước quy phục Thành Đô, chưa khi nào đảng hành động cho lợi ích của dân tộc.  Giờ đây, nếu chiến tranh xảy ra với Trung Quốc thì chắc chắn sinh mạng của toàn dân lại là phương tiện để cứu đảng thêm lần nữa.
Đảng không “đồng hành” với dân tộc vì không phải do dân tộc bầu lên.  Trong chiến tranh đảng được ngoại bang nuôi dưỡng để sai khiến.  Hết chiến tranh, đảng trở thành một tập đoàn ăn bám và ngồi lì ở chính quyền để bóc lột nhân dân.  Từ lâu nhân loại đã tiến sang một nền văn minh dân chủ mới nhưng dân tộc thì vẫn tiếp tục bị đảng kìm kẹp để rút cuộc lâm vào tính trạng lạc hậu nghèo nàn.  
Bằng mọi cách đảng cố cách biệt dân tộc với  những “giá trị phổ quát” mà từ lâu nhân loại đã được hưởng, những giá trị về dân chủ pháp trị, tự do hiến định, nhân quyền và phúc lợi toàn dân.   Không được hưởng những giá trị này thì làm sao dân tộc có thể phát triển bằng người, có thể hưởng hạnh phúc lâu dài và có thể hội nhập vào trào lưu văn minh mới. 
Trong thực tế, đảng đang tiến hành một cuộc chiến tranh chống dân tộc để vinh thân phì gia, tiếp tục vô cảm trước số phận và tương lai của 80 triệu con dân đất nước.  Tình trạng này không thể kéo dài thêm nữa vì nó đã tồn tại quá lâu và còn là một hình thức “tội phạm chống nhân loại”.   
“Làn sóng dân chủ thứ tư”  đang quét dọn ở Bắc phi và Trung Đông, và khuyến  khích mọi dân tộc nạn nhân của các chế độ độc tài đứng lên tự giải thoát.   Cách duy nhất để dân tộc Việt Nam có thể vươn lên bằng thiên hạ, đồng thời giữ được độc lập tự do cho chính mình là ĐCSVN phải tự gỡ bỏ cái ách độc tài đảng trị thiếu nhân tính và lỗi thời.  
Thời điểm hiện nay là cơ hội tốt đẹp nhất để toàn thể dân tộc và tuổi trẻ đứng lên làm lịch sử.   Chúng ta phải ra tay thanh toán cái tập đoàn phản dân hại nước này trước khi Trung Quốc ra tay.   Phần thắng ắt về ta vì cả nhân loại văn minh đang sẵn sàng đứng sau lưng ủng hộ.
© Diễn Đàn Người Dân ViệtNam
 Viên Canh : http://www. diendannguoidanvietnam.com/ index.php?option=com_content& view=article&id=9508%3Avin- cnh-chin-tranh-bin-ong-&catid= 102%3Atrang-bai-vit-ong-nguyn- cao-quyn&Itemid=7 

Không có nhận xét nào: