Huyền Thoại Một Nhà Thơ
Trần Việt Trình (Danlambao) - Một ngày sau năm 1975, sau khi hai miền Nam Bắc “được” giao thông, một ông già tóc râm đang thả bộ trên đường phố Sài Gòn bỗng nghe lời ca tiếng nhạc phát ra từ một người đàn ông cụt chân với cái đàn guitar cũ kỹ hát xin tiền
Những đồi hoa sim ôi những đồi hoa sim
Vào chuyện ngày xưa nàng yêu hoa sim tím
khi còn tóc buối vai
Mấy lúc xong pha ngoài trận tuyến ai hẹn được ngày về
rồi một chiều mây bay
Từ nơi chiến trường đông bắc đó lần ghé về thăm xóm
hoàng hôn tắt sau đồi
Lời ca nghe sao quen quá! Ông lão mới mon men đến hỏi. Thì ra là bài “Những Đồi Hoa Sim” và đó lần đầu tiên ông được nghe. Ông yêu cầu người hành khất hát lại một lần nữa. Nghe hát xong, ông vét sạch tiền trong túi bỏ vào chiếc ca nhựa và nói: “Tôi là tác giả bài thơ được phổ nhạc” rồi bước đi với đôi mắt ngấn lệ …
Ông lão già tóc râm đó là Hữu Loan.
Nhắc đến nhà thơ Hữu Loan là chúng ta nhắc đến bài thơ “Màu Tím Hoa Sim” đã làm say lòng không biết bao nhiêu thế hệ yêu thơ. Bài thơ chân thực và xúc động ấy có một sức sống kỳ lạ. Bài thơ kể lại mối tình của chính nhà thơ với người phụ nữ đầu tiên trong đời đầy bi kịch. Bài thơ được làm để khóc người vợ mà nhà thơ hằng yêu quý vừa bị chết thảm.
Nỗi đau vợ chết thảm ông phải giấu kín trong lòng, không được cho đồng đội biết để tránh ảnh hưởng đến tinh thần chiến đấu của họ. Ông như một cái xác không hồn. Càng đè nén thì nỗi đau càng dữ dội hơn. Một buổi trưa năm 1949, trong thời kỳ theo kháng chiến, lúc đang đóng quân ở Nghệ An, cơn đau trong lòng ông được bung ra, ông ngồi lặng đi ở đầu làng, hai mắt ông đẫm ướt, ông lấy bút ra ghi chép. Không cần phải suy nghĩ nhiều, những câu những chữ mộc mạc cứ trào ra:
Tự chiến khu xa
nhớ về ái ngại
Lấy chồng đời chiến binh
mấy người đi trở lại !
Nhỡ khi mình không về
thì thương
người vợ chờ bé bỏng chiều quê
*
Nhưng không chết
Người trai khói lửa
Mà chết
Người gái nhỏ hậu phương
Tôi về
Không gặp nàng
Mẹ tôi ngồi bên mộ con đầy bóng tối
Chiếc bình hoa ngày cưới
Thành bình hương
Tàn lạnh vây quanh…
Viết bài thơ vào cái quạt giấy để lại cho người bạn, người bạn này đã chép lại và truyền tay nhau trong suốt những năm chiến tranh. Bài thơ “Màu Tím Hoa Sim” ra đời như vậy đó. Người vợ hiền của nhà thơ mất đi, đứa con tinh thần này của nhà thơ ra đời.
Tuy không ấn hành, nhưng bài thơ đã được truyền miệng rộng rãi và sau đó được Nguyễn Bính đăng trên tờ “Trăm Hoa”. Rồi bi kịch chiến tranh trong bài thơ đã góp phần trở thành bi kịch của đời nhà thơ.
“Tôi thấy đau xót, tôi làm bài thơ ấy tôi khóc, vậy mà họ cho tôi là phản động. Tôi phản động ở chỗ nào? Cái đau khổ của con người, tại sao lại không được khóc? Bọn họ xúc phạm đến tình cảm thiêng liêng của tôi đối với người vợ mà tôi hằng yêu quý, cho nên vào năm 1956, tôi bỏ đảng, bỏ cơ quan, về nhà để đi cày. Họ không cho bỏ, bắt tôi phải làm đơn xin. Tôi không xin, tôi muốn bỏ là bỏ, không ai bắt được! Tôi bỏ tôi về”. Đó là lời ông tự thuật. Năm 1988, khi có sự “Đổi mới”, ông đã viết bài “Lời Tự Thuật” gửi cho báo Lao động Chủ nhật nhưng không được đăng. 19 năm sau, nhà thơ lúc ấy đã 91 tuổi, đồng ý để Talawas công bố bài trên.
“Mất nàng, mất tất cả, tôi chán đời, chán kháng chiến, bỏ đồng đội, từ giã văn đàn về quê làm ruộng, một phần cũng vì tính tôi' hay cãi, thích chống đối, không thể làm gì trái với suy nghĩ của tôi'. Bọn họ chê tôi ủy mị, hoạch hoẹ đủ điều, không chấp nhận đơn từ bỏ kháng chiến của tôi. Mặc kệ! Tôi thương tôi, tôi nhớ hoa sim của tôi quá ! với lại tôi cũng chán ngấy bọn họ quá rồi!”. Đó cũng là tâm tình của ông trong “Lời Tự Thuật”.
Những năm 1955-1956, phong trào văn nghệ sĩ miền Bắc bùng lên với sự xuất hiện của nhóm Nhân Văn Giai Phẩm chống chính sách độc tài, đồng thời chống những bồi bút cam tâm lừa thầy phản bạn, ca ngợi này kia để kiếm chút cơm thừa canh cặn. Làm thơ lúc bấy giờ là phải ca tụng, trong khi đó thì ông lại đề cao tình yêu, khóc vợ, bị cho là tình cảm tiểu tư sản, phản động. Bất mãn, Hữu Loan bỏ đảng, bỏ cơ quan, bỏ về quê để trút bỏ mọi phiền muộn, làm công việc của một người thồ đá, nặng nề về thể xác nhưng thanh thản cho đầu óc.
Về quê cũng không yên, “bọn họ” (từ ông dùng) tịch thâu xe của ông, ông phải đi xe cút kít, loại xe bằng gỗ, có một bánh xe cũng bằng gỗ ở phía trước và 2 cái càng ở phía sau để đủn hay kéo. Xe cút kít họ cũng không cho, nên ông phải gánh bộ. Gánh bằng vai, ông cũng cứ gánh, không chịu khuất phục. Họ theo dõi, ngăn cản. Đi đến đâu cũng có công an theo dõi, cho người hại ông. Nhưng lúc nào cũng có người cứu ông. Thơ của ông đã có lần cứu sống ông. Có một tên công an mật được giao nhiệm vụ theo dõi để ám sát ông, nhưng tên ấy đã tìm gặp và nói với ông rằng, hắn sinh ở Yên Mô, rất thích bài thơ Yên Mô của ông viết về tỉnh Yên Bình quê hắn. Hắn thường đem bài thơ Yên Mô của ông ra đọc cho đỡ nhớ, và mỗi lần định giết ông, hắn lại nhớ đến quê mình nên lại thôi, không nỡ giết ông, từ bỏ ý định ám sát.
Lúc còn là chính trị viên của tiểu đoàn, chứng kiến tận mắt những chuyện đấu tố, ông đâm ra chán nản, không còn hăng hái kháng chiến nữa. Kháng chiến khiến chán. Ông thú thật, lúc đó ông thất vọng vô cùng.
Ông thuật lại chuyện một trường hợp một địa chủ bị đấu tố có liên quan trực tiếp đến đời ông như sau:
Lúc ấy, trong một xã thuộc huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hoá, gần nơi ông ở, có một gia đình địa chủ rất giàu. Ông địa chủ đó rất giàu lòng nhân đạo và rất yêu nước. Ông địa chủ thấy bộ đội sư đoàn 304 của Hữu Loan thiếu ăn, nên ông thường cho tá điền gánh gạo đến chỗ đóng quân để ủng hộ. Lúc đó Hữu Loan là trưởng phòng tuyên huấn và chính trị viên của tiểu đoàn nên phải đại diện cám ơn tấm lòng tốt của ông, đồng thời đề nghị lên sư đoàn trưởng trao tặng bằng khen để vinh danh ông. Thế rồi, một hôm, Hữu Loan được tin gia đình ông địa chủ bị đấu tố. Hai vợ chồng ông địa chủ bị đem ra đình làng cho dân xỉ vả, rồi chôn xuống đất, chỉ để lòi ra hai cái đầu, xong họ cho trâu kéo bừa qua bừa lại hai cái đầu, cho đến chết. Gia đình ông bà địa chủ bị xử tử hết, chỉ có một cô con gái 17 tuổi được tha chết nhưng bị đuổi ra khỏi nhà với vài bộ quần áo cũ rách. Tàn nhẫn hơn nữa, họ còn ra lệnh cấm không cho ai được liên hệ, nuôi nấng hoặc thuê cô ta làm công. Thời đó, dân chúng còn bị cấm đoán cả việc lấy con cái địa chủ làm vợ làm chồng.
Biết chuyện thảm thương của gia đình ông bà địa chủ, biết cô bé lúc còn nhỏ, Hữu Loan trở về xã để xem tình trạng cô con gái của họ sinh sống ra sao. Ông về bắt gặp cô ta áo quần rách rưới, mặt mày lem luốc, đang lom khom nhặt những củ khoai mà dân bỏ sót, nhét vào túi áo, chùi vội một củ rồi đưa lên miệng gặm, ăn khoai sống cho đỡ đói. Quá xúc động, nước mắt muốn ứa ra, ông đến gần hỏi thăm và được cô kể lại rành rọt hôm bị đấu tố cha mẹ cô bị chết ra sao. Cô khóc nức nở và cho biết ai cũng xua đuổi, không dám gần gũi cô. Cô cho hay hằng ngày cô đi mót khoai ăn đỡ đói lòng, tối về ngủ trong miếu hoang. Hữu Loan mủi lòng, bất chấp lệnh cấm, lấy cô làm vợ.
Đó là bà Phạm Thị Nhu, sống cùng ông từ đó cho đến ngày ông qua đời, có với nhau 10 người con: 6 trai, 4 gái và hơn 30 cháu nội ngoại.
Cuộc đời ông trải qua quá nhiều thăng trầm. Trong mấy chục năm dài, ông về quê an phận thủ thường, chẳng màng đến thế sự, vậy mà “bọn họ” vẫn trù dập, không chịu để ông yên. Ông chỉ còn biết đổ đau thương lên đá. Ông tưới rượu lên mặt đá và thề sẽ bám đá mà sống. Ngày ngày, ông nạy từng khối đá đưa lên chiếc xe cút kít thô sơ đem đi bán ở các nơi làm vật liệu xây dựng. Bán cả chục xe đá mới kiếm đủ ngày hai bữa cơm dưa muối cho đàn con. Nhiều khi ế ẩm, đá chất đầy vườn, cả tháng không ai hỏi mua. Thời gian trôi qua, Hữu Loan trở thành người thợ đá da đen đúa, chân tay chai sần, rắn rỏi, tua tủa tóc rễ tre, đi đứng nói năng mạnh mẽ hơn xưa. Cặm cụi vật lộn với núi đá, ông nuôi cả mười đứa con khôn lớn. Hơn mười năm sau cùng, tuổi đã lớn, Hữu Loan thôi không còn sức để bám núi đá nữa. Ông lui về nhà, trải chiếu trên thềm, ngày ngày ngồi nhâm nhi rượu và ngóng đợi con cháu về thăm, ngóng đợi những chuyển động đổi thay phận mình, đổi thay cho gia đình, cho làng xóm, cho nước nhà.
Vào tuổi gần đất xa trời, cuối năm 2004, công ty ViTek VTB đột nhiên đề nghị mua bản quyền bài “Màu Tím Hoa Sim” của ông với gía 100 triệu đồng VN. Đây là một sự kiện được coi chưa từng xảy ra. Từ trước tới nay chưa có bài thơ nào được mua tác quyền với giá cao đến như vậy. Vì sao một doanh nghiệp thương mãi lại đi mua bản quyền một bài thơ? Có nguồn tin cho rằng đây là một sự sắp xếp, mua chuộc, để đền bù những mất mát thiệt thòi trong mấy chục năm của ông. 100 triệu đồng đủ để ông trang trải cuộc sống, bớt đi những khó khăn về vật chất trong những năm cuối đời, và mong ông “tái xuất giang hồ”. 100 triệu đồng trừ thuế còn 90 triệu, ông chia cho 10 người con hết 60 triệu, trích một ít để in tập thơ khoảng 40 bài mang tên Thơ Hữu Loan và ông giữ lại 30 triệu phòng đau ốm lúc tuổi gìa. Sau đó cũng có một số công ty khác xin ký hợp đồng mua mấy bài thơ khác nhưng ông từ chối “Thơ tôi làm ra không phải để bán!”
Đó là con người và bản tính bất khuất của một nhà thơ nổi tiếng của văn học Việt Nam.
Màu Tím Hoa Sim là màu tang thương của một tình yêu định mệnh, một tình vợ chồng ngắn ngủi. Màu Tím Hoa Sim còn là một nỗi ám ảnh khôn nguôi của cả dân tộc về chiến tranh, về những bi kịch trong chiến tranh. Điều đó giải thích vì sao bài “Màu Tím Hoa Sim” ngay từ khi đất nước còn bị chia cắt đã được độc giả cả hai miền Bắc-Nam cùng yêu thích.
Bài thơ “Màu Tím Hoa Sim” đã được nhiều nhạc sĩ phổ nhạc, như “Những đồi hoa sim” của Dzũng Chinh, “Áo anh sứt chỉ đường tà” của Phạm Duy và “Chuyện hoa sim” của Anh Bằng. Mỗi ca khúc một vẻ, tất cả đều đều tôn vinh thi phẩm.
Hữu Loan đi qua chín năm kháng chiến với mười bài thơ. Đó là toàn bộ sự nghiệp sáng tác của ông. Thơ của ông có niềm khát khao cháy bỏng cho một đất nước được tự do.
Thi sĩ Hữu Loan ra đi vào ngày 18 tháng 3 năm 2010, cách đây đúng 2 năm, nhưng bài thơ “Màu Tím Hoa Sim” và khí phách của ông còn ở lại mãi mãi với chúng ta và sẽ còn tím mãi màu hoa sim trên dương thế. Sau 95 năm tồn tại nhọc nhằn nhưng rắn rỏi giữa cuộc đời, Hữu Loan đã nằm xuống, nhẹ nhàng và thanh thản, để lại cho đời một pho chuyện kể, thật nhưng lạ kỳ như huyền thoại, để lại cho hậu thế không chỉ di sản thơ ca mà cả một nhân cách sống. Huyền thoại một nhà thơ bất khuất.
18 tháng 3 năm 2012
Trần Việt Trình





Xin gửi một nén hương lòng tưởng nhớ đến nhà thơ tài hoa, dũng cảm và khí phách của người Anh hùng.
Mời Bà Còng và những ai yêu thích bản nhạc vào link của trang này sẽ được nghe bài hát tuyệt vời "Những đồi hoa sim" của Dzũng Chinh phỏng thơ của nhà thơ Hữu Loan, với giọng ca thật ngọt ngào của Như Quỳnh.
http://www.nhaccuatui.com/nghe?M=yV6mLZ3rHE
http://www.nhaccuatui.com/nghe?M=Cuzwq8gZPd
Cùng ngoảnh lại mà cùng chẳng thấy
Thấy xanh xanh ngắt mấy ngàn dâu
Ngàn dâu xanh ngắt một màu
Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai.
Sau đó tôi nhờ cha dạy tôi bài hát này và tôi đã thuộc lúc tôi vừa 10 tuổi. Cha tôi dạy tôi hàng trăm bài hát tiền chiến, sau này mẹ hướng tôi nghe những tình khúc Trịnh Công Sơn, Ngô Thụy Miên, Phạm Duy và một số ca khúc khác. Mẹ dạy tôi ngâm thơ trong đó có bài thơ này. Cha dạy tôi đàn ghi ta và organ. Trong cái lũ cộng sản xung quanh mà tôi biết, Cha tôi là người rất khác biệt.
Hoa minh họa cho bài thơ đó là hoa Mua ở quê tôi rất nhiều. Ngoài màu tím hoa Mua, quê tôi còn có màu tím hoa Ô Môi rất đẹp. Cứ mỗi lần nước từ thượng nguồn đổ về tràn đồng là hoa ô môi tím ngắt hòa lẫn màu vàng thư thả của bông điên điển tràn ngập bờ đê. Mỗi sáng cha giăng lưới óng ánh đầy cá linh, cả một khúc sông ngắn mà hàng chục người giăng lưới. Tiếng gọi nhau í ới, tiếng khua dầm trên sông vang động cả một vùng quê yên tĩnh. Mẹ hái bông điên điển nấu canh chua cá linh, bông điên điển chiên với hột vịt. Cá Thiểu thì bằm nhuyễn làm chả cá cuốn rau tập tàng chấm nước mắm. Cá linh, cá sặc, cá trắng nhiều thì đem ủ mắm, mỗi lần nấu nước mắm thì mùi thơm bát ngát bay xa, Vị nước mắm mặn chát nhưng vừa đến cuống họng thì ngọt , béo vô cùng. Còn bây giờ thì mùa lũ không còn cá như ngày xưa nữa, dường như chúng đã tuyệt chủng vì sự độc ác và thiếu ý thức bảo vệ của con người. Hôm nay nhiều kỷ niệm lại trỗi dậy trong lòng tôi.
nhưng tên ông sống mãi với tình người
những lời thơ câu hát êm trôi
du dương mãi bài ca người lính
xa quê hương vào những ngày khói lửa
chiến tranh nào che dấu hết đau thương!
"ngày hợp hôn nàng không đòi may áo cưới
tôi ở đơn vị về đôi giày bết đất hành quân"
cuộc đời ông là chuổi ngày đau khổ
ngập thù hằn gian ác lũ phi nhân
kẻ trước đây ông gọi người thân
cùng lý tưởng niềm tin, đồng chí
cũng vì ông không chịu làm kiếp quĩ
tiếp tục giết người, tàn ác bất nhân
cũng vì ông còn đó chút lương tâm
người đã lỡ bắt tay cùng quĩ dữ
chúng sợ ông cùng toàn dân không tha thứ
việc chúng làm nên truy sát tới nơi
chúng sợ ông lên tiếng tội tày trời
của lũ quĩ mang tên loài cọng sản
cũng vì ông mang tâm hồn trong sáng
đã làm người không thể đứng bằng tay
không thể van xin cầu khẩn tựa ăn mày
hay cúi đầu quỵ gối như bao loài cầm thú!
cũng vì ông dám yêu con địa chủ
gạt phăng loài quĩ dữ khỏi đời ông
ông thảnh thơi hồn gởi núi sông
đổ yêu thương ngập tràn trên đá
Hữu Loan ông ơi đời ông là tất cả
nhân chứng rành rành sự thật dể nào phai!!!
Tiến sĩ Cù Huy Hà Vũ có bố là Huy Cận và cậu ruột mình là Xuân Diệu mặc dù những nhà thờ này là Cộng sản còn ở lại miền Bắc, nhưhg chế độ VNCH vẫn cho xuất bản và phổ nhạc từ thơ của Huy Cận và Xuân Diệu không bận tâm cái máu Cộng sản của Huy Cận và Xuân Diệu, vì thế cho nên ông Cù Huy Hà Vũ có cái nhìn thiện cảm và phóng khoáng hơn với chế độ VNCH và những người lính VNCH vì có lẽ ông Cù Huy Hà Vũ khám phá ra miền Nam VNCH có tự do ngôn luận và dân chủ đích thực, không như Việt cộng tuyên truyền bịp bợm về VNCH.
Như tôi nghe đâu ở HN có 1 nhạc sĩ guitar tài giỏi nhưng bị mù từ nhỏ vì bênh tật, nhưng bon CS cho là bị bom của Mỹ, và chính người nghệ sĩ nầy đã lên tiếng đính chính là mình bị tật bệnh. Đúng là 1 lũ dối trá.
Tôi có đọc 1 lời tâm sự của nhà thơ:"Vợ tôi mất tôi làm thơ khóc thương tiếc, có gì sai mà bị cấm đoán và phê bình?".
Chứng tỏ bọn cs không có tình người, 1 lũ man rợ!
1) Chì vào hình HCM ( trong nhà của 1 Cán bộ và cũng quen biết) và nói: Hảy vất cái đầu chó ấy đi.
2) Công nhận chế độ thực dân Pháp tốt đẹp hơn thời đại đồ đểu HCM.
Các có rất nhiều trí thức XHCM cũng phản tỉnh...trước sau như một "Bác Hồ và đãng CSVN có công dành độc lập và thông nhất đất nước"...và quên đi 1 sự thật:
1) Không có HCM/CSVN thì VN ta cũng đã có độc lập và cũng có cơ hội phát triển không thua gì Nhật-Nam Hàn - Singapo - Mã Lại. Đúng ra phải nói HCM/CSVN phá hoại nền độc lập VN và cơ may xây dựng 1 nước VN phồn thịnh nhất nhì ĐNÁ.
Nhà thơ Hữu Loan đã nói: Đó là (điều ông không ân hận, khiến ông hài lòng) tôi đã nhận ra bộ mặt thật của Hồ Chí Minh.
Chiều hành quân! Qua những đồi sim...
Những đồi sim,màu tím hoa sim tím chiều hoang biền biệt...
Nàng có đôi người em, có em chưa biết nói
Tóc nàng hãy còn xanh, tóc nàng hãy còn xanh
Tôi là người chiến binh xa gia đình đi chiến đấu
Tôi yêu nàng như yêu người em gái tôi yêu
Người em gái tôi yêu, người em gái tôi yêu
Ngày hợp hôn tôi mặc đồ hành quân
Bùn đồng quê bết đôi giầy chiến sĩ
Tôi mới từ xa nơi đơn vị về
Tôi mới từ xa nơi đơn vị về
Nàng cười vui bên anh chồng kỳ khôi
Thời loạn ly có ai cần áo cưới
Cưới vừa xong là tôi đi
Cưới vừa xong là tôi đi
*
Từ chốn xa xôi nhớ về ái ngại
Lấy chồng chiến binh mấy người trở lại
Mà nhỡ khi mình không về
Thì thương người vợ bé bỏng chiều quê
(Nhưng không chết người trai chiến sĩ
Mà chết người gái nhỏ miền xuôi)
Hỡi ôi ! Hỡi ôi !
Tôi về không gặp nàng
Má ngồi bên mộ vàng
Chiếc bình hoa ngày cưới
Đã thành chiếc bình hương
Nhớ xưa em hiền hoà
Áo anh em viền tà
Nhớ người yêu màu tím
Nhớ người yêu màu sim ...
Giờ phút lìa đời
Chẳng được nói một lời
Chẳng được ngó mặt người...
**
Nàng có ba người anh đi quân đội lâu rồi
Nàng có đôi người em, những em thơ sẽ lớn
Tóc nàng hãy còn xanh, tóc nàng hãy còn xanh
Ôi một chiều mưa rừng nơi chiến trường Đông Bắc
Ba người anh được tin người em gái thương đau
Và tin dữ đi mau, rồi tin cưới đi sau...
Chiều hành quân qua những đồi sim
Những đồi sim, những đồi sim, đồi tím hoa sim tím cả chiều hoang biền biệt
Rồi mùa thu trên những dòng sông
Những dòng sông, những dòng sông làn gió thu sang gió rờn rợn trên mộ vàng
Chiều hành quân qua những đồi sim
Những đoàn quân, những đoàn quân, và tiếng quân ca có lời nào ru ời ời :
"À ơi ! À ơi ! Áo anh sứt chỉ đường tà
Vợ anh chết sớm, mẹ già chưa khâu..."
Những đồi sim, những đồi sim, đồi tím hoa sim, đồi tím hoa sim
Đồi tím ...hoa sim ...
Thơ :Hữu Loan Phổ nhạc : Phạm Duy . Bản nhạc này Thái Thanh hát rất hay.
Tôi rất mê bài thơ lúc còn rất nhỏ.
Cám ơn Hữu Loan và Phạm Duy đã để đời bài thơ , bài hát bất hủ này.
Nàng có đôi người em, có em chưa biết nói
Tóc nàng hãy còn xanh, tóc nàng hãy còn xanh
Tôi là người chiến binh xa gia đình đi chiến đấu
Tôi yêu nàng như yêu người em gái tôi yêu
Người em gái tôi yêu, người em gái tôi yêu
Ngày hợp hôn tôi mặc đồ hành quân
Bùn đồng quê bết đôi giầy chiến sĩ
Tôi mới từ xa nơi đơn vị về
Tôi mới từ xa nơi đơn vị về
Nàng cười vui bên anh chồng kỳ khôi
Thời loạn ly có ai cần áo cưới
Cưới vừa xong là tôi đi
Cưới vừa xong là tôi đi
*
Từ chốn xa xôi nhớ về ái ngại
Lấy chồng chiến binh mấy người trở lại
Mà nhỡ khi mình không về
Thì thương người vợ bé bỏng chiều quê
(Nhưng không chết người trai chiến sĩ
Mà chết người gái nhỏ miền xuôi)
Hỡi ôi ! Hỡi ôi !
Tôi về không gặp nàng
Má ngồi bên mộ vàng
Chiếc bình hoa ngày cưới
Đã thành chiếc bình hương
Nhớ xưa em hiền hoà
Áo anh em viền tà
Nhớ người yêu màu tím
Nhớ người yêu màu sim ...
Giờ phút lìa đời
Chẳng được nói một lời
Chẳng được ngó mặt người...
**
Nàng có ba người anh đi quân đội lâu rồi
Nàng có đôi người em, những em thơ sẽ lớn
Tóc nàng hãy còn xanh, tóc nàng hãy còn xanh
Ôi một chiều mưa rừng nơi chiến trường Đông Bắc
Ba người anh được tin người em gái thương đau
Và tin dữ đi mau, rồi tin cưới đi sau...
Chiều hành quân qua những đồi sim
Những đồi sim, những đồi sim, đồi tím hoa sim tím cả chiều hoang biền biệt
Rồi mùa thu trên những dòng sông
Những dòng sông, những dòng sông làn gió thu sang gió rờn rợn trên mộ vàng
Chiều hành quân qua những đồi sim
Những đoàn quân, những đoàn quân, và tiếng quân ca có lời nào ru ời ời :
"À ơi ! À ơi ! Áo anh sứt chỉ đường tà
Vợ anh chết sớm, mẹ già chưa khâu..."
Những đồi sim, những đồi sim, đồi tím hoa sim, đồi tím hoa sim
Đồi tím ...hoa sim ...
Thơ :Hữu Loan Phổ nhạc : Phạm Duy . Bản nhạc này Thái Thanh hát rất hay.
Tôi rất mê bài thơ lúc còn rất nhỏ.
Cám ơn Hữu Loan và Phạm Duy đã để đời bài thơ , bài hát bất hủ này.
Thời này nhiều người tự xưng đâú tranh cho lẽ phaỉ nhưng trong nhà còn bàn thờ hồ , c̀on treo hình hồ , ca tụng hồ . Bao nhiêu năm qua tội ác hồ và đảng chất cao hơn nuí mà không nhìn ra hay không muốn nhìn ra . Những kẻ như thế mà trông mong gì ?
Còn việc công ty Vitek mua bản quyền baì thơ cũng tương tự như các anh bộ đội " cụ hồ " nghe lời bác và đảng dụ khị hy sinh hết tuổi trẻ lo bắn giết kẻ thù cũng là người Việt cho tới hơi thở cuối cùng , nếu may mắn sống được về già thì được bác và đảng cho hưởng tí tiền còm vè hưu ấy mà . Có khác là nhà thơ Nguyễn Hưũ Loan bị bác và đảng đì cho tới cuối đời vì bỏ đảng bây gìơ đảng dàn xếp cho nhà thơ 100 triệu xem như tiền " bù lỗ " . Chuyện tếu lâm XHCH vưà dài , vưà khôi hài , vưà cay .... .. Nếu nhà thơ Nguyễn Hưũ Loan tuyên bố “Thơ tôi làm ra không phải để bán!” ngay với tác phẩm Màu Tím Hoa Sim có lẽ hay hơn ??
và độc ác lên ngôi. Dường như Ông đã tìm được và có được tình người bằng "con đường thồ đá" chứ không không phải "con đường Kách Mệnh".
Cầu nguyện vong linh Ông luôn hài lòng và không ân hận, phù hộ độ trì cho thế hệ con cháu .
Xin được phép có vài vần thơ để minh chứng rằng ai đó không như Hửu loan
mà vẫn cố tình dùng thơ Ông để dối lừa nhiều người.
Thơ họa từ bài thơ "Vịnh Cái Hồ" của tác giã Vô Danh
Nước có vì đâu hởi cái hồ
Khi hồ chưa có nước nằm mô
Sông dài biển rộng thuyền lên xuống
Vực thẩm đồi cao sóng nhấp nhô
Nước bởi vì hồ nên ụ lại
Hồ không có nước phải phơi khô
Đợi khi hết nước thì ta thấy
Đủ mặt trê tràu với diết rô
THƠ HỌA
Thu nguyệt dương huy phản nước hồ
Thuyền xưa vận quốc biết tìm mô
Thoát ly Việt Bắc đoàn chí khí
Lai đáo Hồ Gươm đám lô nhô
Phượng Hoàng sàn lọc "Mùa Thu Chết"
"Nhạc mẹ" rắc gieo giống đỏ khô
Trường kỳ cài lắng người hai mặt
Xế bóng cạn hồ rỏ con rô
"Phượng Hoàng" chiến dịch triệt phá gián điêp 2 lai sau Mậu Thân
"Mùa thu chết" là tiêu đề đơn xin chiêu hồi là như thế đấỵ. Không tin hỏi tác giả .
"Nhạc mẹ" Paris Bynight#40
"Giống đỏ khô" hoạt cảnh lập công chuộc tội giòng họ nhà "Chiêu"