28.4.11

Con Đường Hoà Giải Dân Tộc


Con Đường Hoà Giải Dân Tộc

Trong suốt dòng lịch sử kể từ khi lập quốc cho tới ngày nay, dân tộc Việt Nam chưa có thời kỳ nào bị phân hoá và chia rẽ trầm trọng như thời kỳ dưới sự thống trị của Hồ Chí Minh và băng đảng Việt Cộng
.  Sự phân hoá và chia rẽ dân tộc mỗi ngày một thêm trầm trọng và đã di căn vào mọi ngõ nghách trong cơ thể xã hội và đang biến chứng thành một cơ thể liệt kháng, không còn đủ khả năng và ý chí chống lại mưu đồ bành trướng ngàn đời của quân Đại Hán từ phương bắc hiện đang đè nặng lên đất nước và được nội ứng bởi bọn Việt gian cộng sản. Do đó, hoà giải dân tộc để thống nhất ý chí và tư tưởng là một nhu cầu lịch sử có tính sinh tử. Tuy nhiên, công việc này chỉ có thể thực hiện được sau khi chế độ độc tài toàn trị Việt Cộng bị thanh toán, bởi vì chính chế độ phi dân tộc này đã là thủ phạm của những tội ác gây phân hoá và chia rẽ dân tộc từ hơn nửa thế kỷ nay. Cộng Hoà Nam Phi đã thực hiện được hoà giải dân tộc sau khi chế độ phân biệt chủng tộc bị xoá bỏ. Với sự trợ giúp về pháp lý và tài chánh của cộng đồng quốc tế, dân tộc Căm Bốt đang thực hiện hoà giải dân tộc sau khi chế độ cộng sản Khờ Me Đỏ bị tiêu diệt. Đây là mẫu hình cần nghiên cứu để áp dụng vào Việt Nam sau này.
Tội Ác Của Hồ Chí Minh Đối Với Dân Tộc Việt Nam
Kể từ khi nhận lệnh của Đệ Tam Quốc Tế để thành lập Đảng Cộng Sản Việt Nam vào ngày 3/2/1930 cho tới ngày hôm nay, Hồ Chí Minh và đồng đảng – với chủ trương đấu tranh tiêu diệt giai cấp – đã gây muôn vàn tội ác nhằm phân hoá và chia rẽ dân tộc để dễ bề thống trị đất nước. Những tội ác của Hồ Chí Minh đối với dân tộc Việt Nam cũng chính là những tội ác của Stalin đối với dân tộc Nga. Hồ Chí Minh – một tên Bolshevik thâm căn – là tên học trò trung thành và xuất sắc của Stalin. Đối với Hồ Chí Minh, Stalin là một lãnh tụ thần tượng không bao giờ sai lầm. Hồ Chí Minh đã tôn thờ Stalin là cha già của thế giới xã hội chủ nghĩa trong đó có Miền Bắc xã hội chủ nghĩa mà Hồ Chí Minh là đầu đảng.  Những tội ác của Stalin đã được chế độ Liên Xô bưng bít từ hơn nửa thế kỷ nay. Nhưng mới đây, Tổng Thống Nga Dmity Medvedev – sau một thời gian chờ đợi lâu dài – đã công bố trước thế giới những tội ác khủng khiếp, dã man của Stalin và chế độ Liên Xô.
Ngày 7/5/2010 – hai ngày trước lễ kỷ niệm được tổ chức tại Nga để đánh dấu 65 năm ngày chấm
dứt Thế Chiến II tại Âu Châu – trả lời cuộc phỏng vấn của nhật báo Izvestia, Tổng Thống Medvedev đã công bố những tội ác của chế độ Liên Xô và của Stalin đã bị che giấu từ hơn một nửa thế kỷ nay như sau:
  • Chế độ trị vì ở Liên Xô không thể xác định bằng cách nào khác hơn là một chế độ độc tài toàn trị. Thật không may, đây là một chế độ đàn áp các quyền tự do cơ bản của con người, và không chỉ với người dân của chính mình mà với cả nhân dân của các nước nằm trong khối cộng sản cũng đã gần nửa thế kỷ chịu chung một số phận tương tự. Đây là tôi muốn nói tới các nước xã hội chủ nghĩa khác. Điều này không thể bị xoá khỏi lịch sử. (Người viết chú giải: Đây là những tội ác chống nhân loại, (crimes against humanity), của chế độ độc tài toàn trị Liên Xô đối với người dân Nga. Chế độ Việt Cộng hiện nay cũng là một chế độ độc tài toàn trị kiểu Stalin. Chế độ này đã và đang gây những tội ác chống nhân loại - tức tội đàn áp các quyền tư do cơ bản của con người – đối với dân tộc Việt Nam).
  • Các sĩ quan Ba Lan bị sát hại ở Katyn năm 1940 đã bị giết theo lệnh của chính quyền Liên Xô trong đó có Joseph Stalin. (Người viết chú giải: Đây là tội ác xâm lược, (the crime of aggression), đối với Ba Lan và tội ác chiến tranh, (war crimes), tội giết tù binh Ba Lan. Việt Cộng – vói sự yểm trợ và tiếp vận của khối Đệ Tam Quốc Tế – cũng đã phạm tội ác xâm lược đối với VNCH trong tháng 4/1975 và rất nhiều tội ác chiến tranh như cướp bóc, (pillaging), giết người vô luật pháp, (extrajudicial execution)…).
  • Stalin là kẻ giết người hàng loạt. Ông ta là kẻ sát nhân với số lượng lớn. Tội ác đó không thể tha thứ được. (Người viết chú giải: Đây là tội ác diệt chủng, (the crime of genocide). Stalin đã giết 6,000,000 người Ukraine bằng cách gây ra nạn đói giết người trong mùa đông năm 1932-1933. Hồ Chí Minh cũng phạmtội ác diệt chủng đối với dân tộc Việt Nam. Trong vụ cải cách ruộng đất tại Miền Bắc, Hồ Chí Minh đã bức hại và giết 700,000 người, tức 5%  trong số  14 triệu nông dân Miền Bắc).
  • Stalin chính là tên tội đồ của dân tộc Nga. (Người viết nhận định: Hồ Chí Minh cũng chính là tên tội đồ của dân tộc Việt Nam).
  • Nếu ngày hôm nay nhắm mắt trước tội ác này (tội ác giết tù binh Ba Lan của Stalin tại khu rừng Katyn) thì trong tương lai những tội ác như vậy sẽ có thể lặp lại ở dạng này hay dạng khác, ở nước này hay nước kia. Những tội ác tày trời như vậy không bao giờ hết thời hiệu pháp lý. Những người gây tội ác bất cứ là ai, bất kể thời gian là bao nhiêu năm cũng phải chịu trách nhiệm. Đây làtrách nhiệm đạo đức, một sự kiện đáng để cho các thế hệ tương lai rút kinh nghiệm. (Người viết nhận định: những tội ác giết người như trên đây đã diễn ra tại Việt Nam. Trong tết Mậu Thân năm 1968, cộng sản đã giết và thủ tiêu 6,000 người dân tại Huế. Sau tháng 4/1975, cộng sản đã xử tử một cách phi pháp, (extrajudicial execution), 100,000 quân dân cán chính VNCH. Tố cáo những tội ác của Việt Cộng là trách nhiệm đạo đứccủa mọi người Việt Nam. Những tội ác này không bao giờ hết thời hiệu pháp lý).
  • Sự trở lại của chủ nghĩa Stalin đã bị loại trừ. (Người viết nhận định: chủ nghĩa Stalin vẫn còn được Việt Cộng tôn thờ và chúng còn đang áp đặt một cách thô bạo lên dân tộc VN).
Những tội ác kể trên của Stalin và Hồ Chí Minh là những tội ác đại hình có tính quốc tế được dự liệu tại Đạo Luật Rome và thuộc quyền tài phán của Toà Án Hình Sự Quốc Tế. Cho tới ngày hôm nay, những tên đầu sỏ Việt Cộng còn đang câm miệng hến trước những tội ác được công bố trên đây bởi vì đó là những sự thật không thể chối cãi.
Khi công bố những tội ác của Stalin và của chế độ Liên Xô đối với nhân dân Nga và nhân dân các nước xã hội chủ nghĩa trong khối Xô Viết, Tổng Thống Medvedev đã mở ra một chương mới trong lịch sử thế giới, dẫn tới việc xét lại toàn bộ tội ác của chế độ Liên Xô đã bị che giấu từ năm 1917 tới năm 1991 cũng như những tội ác đã bị che giấu trong hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa theo mô hình Stalin từ hơn nửa thế kỷ nay trong đó có chế độ  Việt Cộng mà tên đầu đảng  là Hồ Chí Minh. Những công bố trên đây của Tổng Thống Medvedev vào thời điểm này – tiếp theo sau Nghị Quyết số 1481 năm 2006 của Nghị Viện Âu Châu lên án các chế độ cộng sản – là bước cuối cùng tiến tới việc vứt bỏ toàn bộ chủ nghĩa cộng sản vào thùng rác lịch sử của nhân loại.
 Tội Ác Của Cộng Sản Đối Với Đồng Bào Miền Nam Việt Nam
Không giấy mực nào có thể ghi hết những tội ác của Hồ Chí Minh và băng đảng Việt Cộng đối với dân tộc Việt Nam trong suốt 80 năm nay. Tuy nhiên, nhằm mục đích chứng minh rằng những chia rẽ do Việt Cộng gây ra là không thể hoà giải được chừng nào chúng còn thống trị đất nườc, bài viết này chỉ thu hẹp vào một số ít tội ác tượng trưng của Việt Cộng đối với đồng bào Miền Nam kể từ sau ngày 30-4-1975 cho tới ngày hôm nay, và từ đó có thể suy ra những tội ác của chúng đối với toàn thể dân tộc Việt Nam.
Khi xâm lăng VNCH, Việt Cộng đã hành xử như một đạo quân thực dân đi xâm lược đô hộ một quốc gia thù địch mà một nhà báo người Pháp đã nhận định rằng đây là một kiểu thực dân nội địa, (auto-colonisation). Với tính cách là đạo quân xâm lược, băng đảng Việt cộng chính là kẻ thù của toàn dân Miền Nam: “Giặc từ Miền Bắc vô Nam; bàn tay nhuốm máu đồng bào”.  Ngay khi chiếm được Việt Nam Cộng Hoà, chúng lập tức xoá bỏ chính quyền chính thống quốc gia đương nhiệm, bỏ tù tất cả quân cán chính VNCH dưới cái nguỵ danh “học tập cải tạo” để trả thù. Chúng thành lập một chính quyền đô hộ thực dân nội địa  từ trung ương tới địa phương gồm toàn những cán binh, cán bộ của chúng từ Miền Bắc đưa vào với cung cách hành xử theo một thứ “văn hoá xã hội chủ nghĩa” rừng rú rất xa lạ với đồng bào Miền Nam. Với chính quyền thực dân nội địa độc tài trong tay, chúng áp dụng một phương pháp cai trị bằng khủng bố và kìm kẹp rất dã man mà chúng đã có kinh nghiệm từ Miền Bắc, và cùng lúc, chúng phạmnhững tội ác gây xung đột và chia rẽ trầm trọng giữa chúng với người dân Miền Nam và giữa người Việt với người Việt.
Phương Pháp Cai Trị Bằng Khủng Bố và Kìm Kẹp
So với phương pháp cai trị bằng cách chia để trị của thực dân Pháp, phuơng pháp cai trị bằng khủng bố và kìm kẹp của băng đảng Việt Cộng đã chứng tỏ rằng chúng là bậc thày:
a) Với chính sách hộ khẩu và tem phiếu lương thực, trong thực tế, cộng sản đã chỉ định nơi cư trú, kiểm soát sự di chuyển và cái dạ dầy của người dân Miền Nam. Đây là một hình thức giam lỏng.  Với chủ trương thâm độc “ăn không no, đói không chết”, hàng tháng chúng cung cấp cho mỗi người 12kg gạo hay bo bo – một loại lương thực để nuôi gia súc – quy ra gạo cùng với 200gr đường và vài lạng thịt… Với chính sách nuôi ăn như nuôi súc vật, nuôi tù trên đây, cộng sản tin rằng quanh năm suốt tháng người dân chỉ mải miết lo cái ăn và không còn tâm trí để chống lại chúng, và nếu người nào chống đối, chúng sẽ cắt tem phiếu lương thực và bao vây kinh tế, tức cắt nguồn sống. Tại Miền Bắc, vào năm 1956, chỉ vì tham gia vào phong trào Nhân Văn-Giai Phẩm – một phong trào đòi tự do dân chủ cho đồng bào Miền Bắc – mà nhà đại trí thức khoa bảng, giáo sư đại học Nguyễn Mạnh Tường  đã bị cắt tem phiếu lương thực và bị bao vây kinh tế trong suốt 30 năm. Giáo Sư Nguyễn Mạnh Tường cùng với vợ con đã phải sống 30 năm  ngắc ngoải như những “con ma đói”  trong cái “thiên đường xã hội chủ nghĩa” Miền Bắc.
 b) Với hệ thống công an khu vực dày đặc, cộng sản đã theo rõi và kiểm soát được tư tưởng và hành động của mọi người. Cộng sản tổ chức mỗi người dân là một điểm chỉ viên có bổn phận phải theo rõi, dò la, báo cáo hành động và tư tưởng của người khác ngay cả với cha mẹ, vợ chồng, anh chị em, con cái trong gia đình, và ngược lại, người điểm chỉ viên đó lại bị người điểm chỉ viên khác theo rõi và báo cáo… Cộng sản đã chủ tâm tạo một không khí khủng bố bao trùm trong xã hội, và mọi người luôn luôn sống trong sợ hãi và đề phòng bị ám hại. Với kiểu khủng bố này, cộng sản đã làm tê liệt ý chí và sức đối kháng của người dân.
c) Cộng sản đoàn ngũ hoá toàn dân để kiểm soát và theo rõi.  Tất cả mọi người,  bất kể già, trẻ, lớn, bé, đều phải tham gia vào một tổ chức do chúng kiểm soát như: đội nhi đồng cứu quốc, hội phụ nữ cứu quốc, đoàn thanh niên xung phong, hội nhà văn, hội trình diễn nghệ thuật…Trong các hội đoàn này, cộng sản tổ chức những buổi sinh hoạt định kỳ, và các hội viên phải thay phiên nhau “phê và tự phê” để   tự tố cáo mình và tố cáo người khác về những  hành vi, tư tuởng bị cho là sai trái  với chủ trương, đường lối của đảng cộng sản. Từ những buổi sinh hoạt gọi là “phê và tự phê” này, cộng sản nhận diện được những người mà chúng cần theo rõi, đàn áp và thủ tiêu.
d) Với chính sách “học tập cải tạo”, Việt Cộng đã nâng kỹ thuật khủng bố của chúng lên hàng siêu đẳng. Chỉ cần một cái lệnh hành chánh của một chính quyền địa phương cấp thấp là đủ để chúng đưa một người dân lương thiện đi tù khổ sai từ ba năm tới chung thân với cái chiêu bài rất đểu giả là đi học tập để thông suốt đường lối của đảng, và khi nào học tập tốt, cải tạo tốt thì về. Vào năm 1956, tại Miền Bắc, cộng sản đã đưa Triết Gia Trần Đức Thảo – triết gia ngây thơ (?) đã trao tất cả nhiệt tình yêu nước cho tên phản quốc Hồ Chí Minh – đi học tập cải tạo bằng cách cho đi chăn bò tại nông trường Ba Vì để suy tư thêm về chủ nghĩa Mác-Lê chỉ vì tội tham gia phong trào Nhân Văn-Giai Phẩm. Sau tháng 4/1975, Việt Cộng đã đưa 1,000,000 quân dân cán chính VNCH đi tù cải tạo. Ngoài ra, theo tài liệu của tổ chức Tưởng Niệm Nạn Nhân của Chủ Nghĩa Cộng Sản, “The Victims of Communism Memorial  Foundation”, thì Hồ Chí Minh đã giết 850,000 người trong những trại tù cải tạo tại Miền Bắc.  “… When Ho Chi Minh sent 850,000 Vietnamese to their graves in re-education camps”. Nếu ước tính số người chết trong các trại cải tạo là 15% thì số người bị Hồ Chí Minh đưa đi cải tạo tại Miền Bắc là 6,000,000 người. Tính chung lại, cộng sản đã đưa đi tù cải tạo 7,000,000 người, và nếu tính trung bình số năm tù của mỗi người là 7 năm thì số năm tù của 7,000,000 người là 49,000,000 năm. Trong khi đó, để tố cáo chế độ tù đày của thực dân Pháp, trong một bài diễn văn đọc ngày 1-5-1960, Hồ Chí Minh đã công bố rằng 31 thành viên đương nhiệm của ban chấp hành trung ương của Đảng Cộng Sản Việt Nam đã bị giam tổng cộng là 222 năm trong các nhà tù của thực dân Pháp.
Với phương pháp cai trị bằng khủng bố và kìm kẹp dã man trên đây, cộng sản đã coi người dân Miền Nam là những kẻ thù giai cấp không đội trời chung của chúng. Đây chính là bước đầu tạo ra chia rẽ không thể hoà giải giữa cộng sản và người dân Miền Nam. Bước tiếp theo là những tội ác dã man mà chúng đã vi phạm một cách quy mô và có kế hoạch.
Những Tội Ác Gây Chia Rẽ Giữa Việt Cộng và Đồng Bào Miền Nam
Theo luập pháp quốc tế, khi xâm lăng VNCH, cộng sản Bắc Việt đã phạm tội ác xâm lược một quốc gia độc lập có chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ. Và trong cuộc xâm lăng này, Việt Cộng đã phạm rất nhiều tội ác chiến tranh và tội ác chống nhân loại đối với đồng bào Miền Nam. Sau đây xin ghi lại một tội ác chiến tranh, tội cướp bóc (pillaging).
  • Chúng ăn cướp 16 tấn vàng của ngân khố quốc gia và cấp tốc chuyên chở về Miền Bắc để những tên đầu sỏ dấm dúi chia nhau như quân cướp chia của ăn cướp.
  • Chúng ăn cướp các kho tàng của chính phủ, của quân đội và chuyên chở suốt ngày đêm về Miền Bắc bằng mọi phương tiện trong nhiều tháng trời.
  • Chúng cướp nhà của 3,000,000 người vượt biên để chia cho nhau.
  • Chúng bắt những người xuất ngoại phải hiến nhà cho chúng.
  • Chúng cưỡng bức 1.5 triệu đồng bào đi “vùng kinh tế mới” để cướp nhà.
  • Chúng cướp nhà của quân cán chính VNCH và chia cho nhau.
  • Chúng đánh tư sản mại bản để cướp tài sản, cửa hàng và kho hàng của tư thương.
  • Chúng ăn cướp các nhà máy, các xí nghiệp của tư nhân để thành lập các hợp tác xã của chúng.
  • Chúng ăn cướp tiền của đồng bào ký thác trong các ngân hàng.
  • Chúng ăn cướp tiền của dân bằng cách hạ thấp trị giá đồng bạc của VNCH và tổ chức đổi tiền 2 lần. Mỗi lần đổi tiền chúng chỉ trả lại cho một số ít để sinh sống trong một thời gian ngắn, và chúng cướp sạch số còn lại.
  • Chúng ăn cướp bất động sản của các tôn giáo.
  • Chúng dùng luật lệ rừng rú của chúng để cướp tất cả thổ cư của dân.
  • Chúng cướp đất tha ma, đất nghĩa địa.
  • Chúng cướp đất nông nghiệp của nông dân qua Luật Đất Đai ăn cướp của chúng.
Trong số những tội ác kể trên, tội cướp đất nông nghiệp của nông dân là tội ác dã man nhất. Tội ác chiến tranh này còn mang tính chất tội ác chống nhân loạibởi vì tội ác này cướp đi quyền sống của hàng chục triệu nông dân, chiếm hơn 70% dân số Miền Nam. Tội ăn cướp này đã diễn ra suốt 35 năm nay và còn đang tiếp tục. Hiện nay, trong khắp Miền Nam gần như thường xuyên có những đoàn nông dân hàng trăm người kéo nhau đi  kiện và biểu tình kéo  dài nhiều ngày, ăn chực nằm chờ, lây lất ngoài công viên, trên hè phố để đòi đất nông nghiệp và thổ cư bị bọn phỉ quyền địa phương chiếm đoạt. Cho tới ngày nào loài cộng phỉ còn thống trị đất nước, tội ác này không thể chấm dứt bởi vì cướp đất của dân để bán đã mang lại nguồn lợi to lớn cho Băng Đảng Cộng Phỉ mà chúng không thể từ bỏ được.
Ngoài tội cướp bóc kể trên, Việt Cộng còn phạm rất nhiều tội ác chiến tranh và tội ác chống nhân loại đối với đồng bào Miền Nam một cách quy mô và có kế hoạch:
  • Tội đưa đi lưu đày, (deportation), 1.5 triệu đồng bào Miền Nam tại những nơi rừng thiêng nước độc mà chúng đặt cho cái nguỵ danh là “khu kinh tế mới”. Khí hậu khắc nghiệt tại những nơi lam sơn chướng khí này đã gây ra những cái chết cho nhiều chục ngàn người.
  • Tội xử tử một cách phi pháp, (extrajudicial, or summary, execution), 100,000 quân dân cán chính VNCH trong thời gian 10 năm kể từ sau tháng 4/1075, gây đau thương suốt đời cho cho hàng trăm ngàn thân nhân ruột thịt của họ.
  • Tội giết 160.000 người bằng cách đuổi theo pháo kích và bắn trực xạ trong nhiều ngày vào đoàn người chạy giặc suốt theo chiều dài của Tỉnh Lộ 7B từ Pleiku xuống duyên hải trong tháng 3/1975, để lại đau thương suốt đời cho hàng trăm ngàn thân nhân của họ.
  • Tội giam cầm phi pháp,(imprisonment without formal charge or trial), 1,000,000 quân dân cán chính VNCH trong những cái gọi là “trại cải tạo” với thời gian bị giam cầm là từ 3 tới 10 năm, và có nhìều người đã bị giam tới 17 năm. Tội ác này đã gây đau khổ tinh thần cho hàng triệu thân nhân ruột thịt của họ.
  • Tội ác thủ tiêu mất tích, (enforced disappearance of persons), 165,000 quân dân cán chính VNCH bị chết vì đòn thù trong các trại tù cải tạo. Hiện nay, Việt cộng còn đang chôn giấu 165,000 bộ hài cốt của những người này trong rừng núi với chủ tâm trả thù, gây thống khổ tinh thần suốt 35 năm nay cho hàng trăm ngàn cha mẹ, vợ chồng, anh chị em, con cái của họ.
  • Chế độ độc tài khủng bố Việt Cộng đã là nguyên nhân xô đẩy 3,000,000 đồng bào Miền Nam lao ra biển trên những con thuyền mỏng manh để đi tìm tự do, gây ra những cái chết thảm cho 700,000 đồng bào trên biển cả, để lại đau thuơng suốt đời cho hàng triệu cha mẹ, vợ chồng, anh chị em, con cái của họ.
  • Chúng tổ chức vượt biên để thu vàng và cướp nhà của dân; khi thuyền vượt biên ra đến hải phận quốc tế, chúng cho công an dùng thuyền cao tốc đuổi theo, bắn chìm thuyền và giết hết những người đã nộp tiền cho chúng. Đây là một tội ác man rợ của loài cộng phỉ đối với đồng bào Miền Nam.
Một số tội ác kể trên đã đủ để chứng minh rằng hầu hết các gia đình tại Miền Nam đều là nạn nhân của tội ác chiến tranh và tội ác chống nhân loại của băng đảng cộng sản. Chính những tội ác này đã gây ra hận thù và chia rẽ không thể hoà giải giữa Việt Cộng và đồng bào Miền Nam. Do đó, những thiện chí (?) kêu gọi hoà giải giữa cộng sản với người dân Miền Nam và với cộng đồng người Việt tỵ nạn cộng sản tại hải ngoại trong lúc này là đồng loã với những tội ác của chúng, là chuyện đặt cái cày trước con trâu.
 Những Tội Ác Gây Chia Rẽ Giữa Người Việt và người Việt
Như đã trình bày ở trên, khi xâm lăng VNCH, Việt Cộng đã hành xử như một đạo quân thực dân đi xâm lược một quốc gia thù địch. Chúng thi hành một chính sách phân biệt đối xử nhằm chia rẽ dân tộc. Chúng gọi một cách mất dạy, láo xược toàn dân Miền Nam là “nguỵ”, và chúng tôn xưng một cách trâng tráo bọn Nam gian, bọn ăn cơm quốc gia thờ ma cộng sản, bọn nằm vùng và hàng triệu người được chúng đưa từ Miền Bắc vào xâm thực Miền Nam là “quần chúng cách mạng”. Chính sự phân biệt trên danh nghĩa này đã là nguyên nhân đầu tiên gây chia rẽ không thể hoà giải giữa người Việt với người Việt.  Chỉ cần quan sát những sự kiện đã và đang diễn trong xã hội Miền Nam từ ngày 30/4/1975 đến nay sẽ thấy rõ sự chia rẽ trầm trọng giữa hai thành phần người Việt nói trên là không thể hoà giải được chừng nào cộng sản còn thống trị đất nước.
  • Chúng triệt hạ khoảng 50 nghĩa trang QĐVNCH trong toàn Miền Nam bằng cách đào các mộ phần, lấy hài cốt mang đi thủ tiêu và san thành bình địa; trong khi đó chúng xây cất  rất “hoành tráng” một số tương đương các nghĩa trang liệt sĩ của chúng trong khắp các tỉnh thành Miền Nam. Đây là việc làm có chủ tâm gây chia rẽ không thể hoà giải giữa hàng triệu thân nhân của hai phe người Việt.
  • Chúng cố tình triệt hạ Nghĩa Trang Quân Đội Biên Hoà – nơi an nghỉ của 16,000 anh hùng tử sĩ của QLVNCH – bằng cách giật sập và mang đi thủ tiêu Bức Tượng Thương Tiếc. Chúng đập phá các mộ bia, san bằng các ngôi mộ, không cho thân nhân sửa sang, tảo mộ. Chúng chủ tâm để cho thời gian tàn phá di sản lịch sử quốc gia này; trong khi đó, cách đấy không xa, chúng xây cất một nghĩa trang liệt sĩ rất quy mô, “hoành tráng”, được canh gác, tu bổ, sơn phết hàng ngày, có cửa hàng bán đồ lưu niệm… Sự phân biệt đối xử đối với những người chết đã gây chia rẽ trầm trọng, không thể hoà giải giữa đồng bào Miền Nam và người của phe chúng.
  • Chúng đuổi hàng chục ngàn thương binh VNCH ra khỏi các quân y viện trong toàn Miền Nam để chiếm chỗ cho thương binh của chúng. Những người thương binh sa cơ, thất thế đã phải dìu nhau ra khỏi các quân y viện, lê lết trên đương phố với thương tích đầy mình. Cảnh tượng thương tâm này đã làm đau lòng đồng bào Miền Nam. Sự phân biệt đối xử dã man, vô nhân tính của Việt Cộng đã chồng chất thêm tội ác của chúng đối với đồng bào Miền Nam. Loài dã thú cũng không đối xử với đồng loại của chúng như băng đảng Việt Cộng đối xử với đồng bào của chúng!
  •  Ngay sau ngày 30/4/1975, cộng sản đã đưa hơn một triệu người từ Miền Bắc vào Sàigòn để chiếm đoạt những căn nhà của hàng trăm ngàn người chạy giặc để lại và của gần một triệu người Sàigòn bị chúng đưa đi đày tại những “khu kinh tế mới”. Những “quần chúng cách mạng” khố rách áo ôm này cùng với quân chiếm đóng dép râu nón cối đã chiếm đoạt hết những khu phố biệt thự sang trọng nổi tiếng của Sàigòn như Công Lý, Duy Tân, Bà Huyện Thanh Quan, Yên Đổ…và các khu phố buôn bán sầm uất như Tự Do, Nguyễn Huệ, Lê Lợi, Gia Long, Lê Thánh Tôn…Chúng coi Sàigòn là chiến lợi phẩm để đem chia chác cho nhau. Người Sàigòn, một sớm một chiều, cảm thấy mình bị cướp trắng tay; Sàigòn đổi chủ, đổi tên; khắp ngõ, hẻm, phố phường, công sở…vang lên cái giọng the thé Bắc Kỳ 75 chói tai, lạ hoắc cùng với dép râu nón cối làm bẩn Hòn Ngọc Viễn Đông tráng lệ. Cái cảm thức mất mát này đã gây chia rẽ không thể hoà giải giữa những kẻ xâm thực và người dân của thành phố bị xâm thực.
  • Những người xâm thực Miền Bắc đã giành hết những chức vụ tại các công sở, công ty, xí nghiệp… có lương bổng cao. Một thí dụ điển hình là tại công ty hàng không quốc doanh có trụ sở tại Sàigòn, cho tới ngày hôm nay, hầu hết tiếp viên hàng không – một công việc có lương bổng rất cao – đều là người có gốc gác miền Bắc; người dân Miền Nam rất khó chen chân vào được. Sự kỳ thị này đã hình thành nên một giai cấp làm chủ là người Bắc và giai cấp làm công là người Nam. Sự chia rẽ này là không thể hoà giải được giữa nguời Việt  và người Việt.
  • Trong số 1.5 triệu người bị đưa đi đày tại những khu kinh tế mới, đã có hàng trăm ngàn người bỏ trốn, và khi trở về thì thấy ngôi nhà khang trang xây dựng bằng công lao, mồ hôi nước mắt của cả gia đình đã bị một kẻ lạ mặt từ Miền Bắc vào chiếm đoạt một cách “vô tư”, công khai và “hợp pháp”. Người bị cướp nhà phải sống lê lết trên vỉa hè, dưới mái hiên của nhà mình. Kẻ cướp và người bị cướp không thể hoà giải và sống chung hoà bình với nhau được.
Một số sự kiện trên đây đủ để chứng minh rằng chính sách thực dân nội địa và sự phân    biệt đối xử của Việt Cộng đã gây chia rẽ trầm trọng giữa người Việt và người Việt. Chừng nào băng đảng Việt Cộng còn thống trị đất nước thì không thể có hoà giải, và sự chia rẽ dân tộc càng trầm trọng thêm. Tất cả những tội ác của Việt Cộng đối với đồng bào Miền Nam đã được chúng chủ trương và hoạch định từ trước chứ không phải là những sai lầm như một số luận điệu bao che cho tội ác của chúng và cho rằng chỉ cần một lời xin lỗi của chúng là đủ để hoà giải dân tộc.
Con Đường Hoà Giải Dân Tộc
Kể từ sau ngày 30/4/1975, Việt Cộng luôn luôn lớn tiếng huyênh hoang rằng chúng đã “đại thắng” và “thống nhất” được đất nước. Nhưng thực tế cho thấy suốt 35 năm nay và sẽ không bao giờ chúng có thể thống nhất được nhân tâm. Với sự yểm trợ và tiếp vận của khối Đệ Tam Quốc Tế, Việt Cộng có thể sử dụng vũ lực để thống nhất lãnh thổ. Nhưng với chính sách thực dân nội địa và  chủ trương phân biệt đối xử “nguỵ-cách mạng” đã và đang diễn ra tại Miền Nam suốt 35 năm nay, băng đảng Việt Cộng không thể thống nhất được nhân tâm mà chỉ làm băng hoại thêm tình đoàn kết dân tộc. Đây là một tội ác lịch sử. Tội ác này xoá bỏ cái gọi là “công thống nhất đất nước” mà chúng và tay sai đã hô hoán, kể công lếu láo suốt 35 năm nay để lừa bịp lịch sử.
Ngày 30-4-1975, đoàn quân xâm lăng cộng sản Miền Bắc chỉ chiếm được đất, chiếm được thành mà không chiếm được lòng dân thì đó không phải là đạo quân “đại thắng mùa xuân” như chúng reo hò mà chỉ là một đoàn quân ăn cướp, và thực tế 35 năm nay đã chứng minh sự thật này. Do đó, Việt Cộng – bọn “giặc cờ đỏ” – không có tư cách gì để đứng ra kêu gọi hoà giải dân tộc; chỗ đứng của chúng là trước vành móng ngựa để trả lời về những tội ác mà chúng đã phạm đối dân tộc suốt 80 năm nay.
Để hoà giải dân tộc, trước hết phải xác định được cái nguồn gốc và nguyên nhân đã gây chia rẽ dân tộc, và sau đó phải tìm một giải pháp công bằng để hoà giải giữa những người đã bị chia rẽ,  xoá tan đi những sự thù hận và hàn gắn lại tình đoàn kết dân tộc để tạo sức mạnh và ý chí chống lại  âm mưu bá quyền muôn đời của quân Đại Hán từ phương bắc hiện đang đe doạ trầm trọng đất nước với sự tiếp tay làm nội ứng của băng đảng Việt Cộng.
Như đã chứng minh ở trên, sự chia rẽ dân tộc hiện nay có nguồn gốc và cũng là nguyên nhân từ những tội ác có tính quốc tế mà Đảng Cộng Sản Việt Nam – một chi bộ của Đệ Tam Quốc Tế – đã phạm đối với dân tộc.  Do đó, muốn hoà giải dân tộc, điều tiên quyết là phải thanh toán cái băng đảng tay sai quốc tế đã gây tội ác đối với dân tộc. Đây là nhiệm vụ lịch sử của toàn dân Việt Nam trong và ngoài nước. Với chiều hướng lịch sử hiện nay,  chắc chắn rằng bằng cách này hay cách khác, toàn dân Việt Nam sẽ thanh toán được chế độ Việt Cộng như các dân tộc của những nước Đông Âu và Liên Xô  đã làm. Phần còn lại là tìm một giải pháp hoà giải phù hợp với truyền thống văn hoá nhân bản của dân tộc.
 Từ sau Đệ II Thế Chiến đã có hơn 30 quốc gia trên thế giới có chia rẽ nội bộ, và tùy theo nguồn gốc và tính chất của sự chia rẽ mà mỗi quốc gia tự tìm kiếm một phương pháp hoà giải dân tộc. Cho tới nay đã có nhiều phương pháp hoà giải dân tộc đã và đang được áp dụng tại nhiều quốc gia, đặc biệt là tại Cộng Hoà Nam Phi và Căm Bốt là hai trường hợp được cộng đồng thế giới  đặc biệt quan tâm theo rõi. Riêng trường hợp Căm Bốt còn được cộng đồng thế giới trợ giúp về pháp lý và tài chánh – dự trù khoảng 50 triệu U.S. dollars. Hai phương pháp hoà giải này được dựa trên ba khái niệm: Sự Thật, Công Lý và Tưởng Nhớ, “The concept of Truth, Justice and Memory”. Sau đây xin trình bày về hai phương pháp hoà giải này:
I – Năm 1995, để hoà giải dân tộc, sau khi đã xoá bỏ được chế độ phân biệt chủng tộc,   Cộng Hoà Nam Phi đã thành lập Hội Đồng Sự Thật và Hoà Giải, “Truth and Reconciliation Commission”, viết tắt là “TRC”, do Tổng Giám Mục Desmond Tutu – người đoạt giải Nobel Hoà Bình năm 1984 – cầm đầu.  Hội đồng này gồm có ba uỷ ban.
1)      Uỷ Ban Điều Tra Vi Phạm Nhân Quyền, “The Human Rights Violation Committee”, có nhiệm vụ điều tra những vi phạm nhân quyền trong thời gian từ 1960 đến 1994.
2)      Uỷ Ban Tu Chỉnh và Bồi Thường, “The Reparation and Rehabilitation Committee”, có nhiệm vụ phục hồi phẩm giá cho những nạn nhân và đưa ra những biện pháp tu chỉnh và bồi thường thiệt hại.
3)      Uỷ Ban Ân Xá, “The Amnesty Committee”, có nhiệm vụ cứu xét ân xá hay trừng phát những kẻ phạm tội ác nghiêm trọng.
Mục đích thứ nhất của Hội Đồng Sự Thật và Hoà Giải là nêu lên những vi phạm nhân quyền xấu xa và tồi bại của chính sách phân biệt chủng tộc. Mục đích thứ hai là nhìn nhận và bồi thường những tổn thất về vật chất và tâm lý mà những nạn nhân đã phải chịu đựng. Mục đích thứ ba là cổ vũ một tinh thần hưng phấn dân tộc, “national catharsis”.
Phương thức hoà giải dân tộc của Cộng Hoà Nam Phi dựa trên khái niệm Sư Thậtđã có kết quả tốt đẹp đối với dân tộc Nam Phi bởi vì chính sách phân biệt chủng tộc chỉ gây ra những tội vi phạm nhân quyền trong phạm vi nội bộ quốc gia Nam Phi không giống như những tội ác có tính quốc tế đã gây ra thảm hoạ có tính nhân loại như “Boat People” mà băng đảng Việt Cộng đã phạm đối với dân tộc Việt Nam. Do đó, phương pháp hoà giải dân tộc của Nam Phi không thể mang áp dụng vào trường hợp Việt Nam sau khi chế độ Việt Cộng bị thanh toán.
II – Sau một thời gian dài bị chậm trễ vì những khác biệt giũa các phe phái chính trị trong nội bộ quốc gia và những áp lực quốc tế ủng hộ và chống đối, cuối cùng thì công lý đã tới với dân tộc Căm Bốt. Một Toà Án Đặc Biệt Căm Bốt có tên Anh Ngữ là “Extraordinary Chambers in the Courts of Cambodia” đã được thành lập  tại Thủ Đô Nam Vang của Căm Bốt vào năm 2006 để xét xử những tên tội phạm đầu não của cộng sản Khờ Me đỏ về những tội ác diệt chủng, tội ác chiến tranh và tội ác chống nhân loại mà chúng đã phạm đối với dân tộc Căm Bốt trong thời gian từ 17/4/1975 đến 6/1/1979. Trong khoảng thời gian ba năm chín tháng, bọn cộng sản khát máu này đã giết 1.7 triệu người Căm Bốt từ trẻ thơ tới người già.
Toà Án Đặc Biệt Căm Bốt được thành lập bởi Chính Phủ Căm Bốt và Liên Hiệp Quốc. Để đáp ứng được tiêu chuẩn pháp lý quốc tế, Chính Phủ Căm Bốt và LHQ đã mời các thẩm phán và công tố viên quốc tế để cùng làm việc với các thẩm phán và công tố viên người Căm Bốt. Ngày 31-7- 2007, các đồng thẩm phán điều tra, “the co-investigating judges”, đã ban hành trát bắt giữ đầu tiên, và năm thủ phạm đã bị bắt giam gồm những tên sau đây:
*Kaing Guek Eav, Alias Duch, cựu trưởng trại tù S-21, bị kết tội ác chống nhân loại.
*Nuon Chea, cựu chủ tịch quốc hội, bị kết tội ác chống nhân loại và tội ác chiến tranh.
*Ieng Sary, cựu bộ trưởng ngoại giao, bị kết tội ác chống nhân loại và tội ác chiến tranh.
*Ieng Thirith, cựu bộ trưởng xã hội, bị kết tội ác chống nhân loại.
*Khiêu Samphan, cựu thủ tướng, bị kết tội ác chống nhân loại và tội ác chiến tranh.
Phiên toà đầu tiên xử thủ phạm Kaing Guek Eav, Alias Duch đã mở ra ngày 17-2-2009, và phiên toà  ngày 26-7-2010 đã kết án tên tội phạm này 35 năm tù. Tên tội phạm kế tiếp sẽ bị mang ra xử là Nuon Chea.
Khi thành lập Toà Án Đặc Biệt Căm Bốt để xét xử những tên tội phạm Khờ Me Đỏ, Chính Phủ Căm Bốt và LHQ đã chọn phương pháp hoà giải dân tộc dựa trên khái niệm Công Lý. Công lý là một thành tố không thể thiếu trong tiến trình hoà giải dân tộc. Công lý cần thiết để phục hồi những liên hệ hoà bình và bình thường giữa những người đã phải sống dưới chế độ khủng bố cộng sản. Công lý phá bỏ chu kỳ bạo lực, sự thù hận và sự trả thù vô luật pháp. Sau hết, công lý còn cần thiết để phục hồi danh dự cho những nạn nhân còn sống sót và gia đình của những nạn nhân đã chết. Tóm lại, Công Lý là cách đối xử nhân bản, công bằng và văn minh nhất.
Song song với nhiệm vụ của Toà Án Đặc Biệt Căm Bốt là mang những kẻ phạm tội ra trước công lý và mang công lý tới cho hàng triệu nạn nhân của chế độ cộng sản Khờ Me Đỏ, còn có một tổ chức xã hội dân sự đảm nhiệm vai trò như một Uỷ Ban Sự Thật; đó là Trung Tâm Tài Liệu về Cam Bốt có tên Anh Ngữ là “Documentation Center of Cambodia”, viết tắt là “DC-Cam”. Trung tâm này – có một lịch sử hình thành rất đáng chú ý – ra đời 11 năm trước để chuẩn bị cho việc thành lập Toà Án Đặc Biệt Căm Bốt sau này.
Tháng 4/1994, Quốc Hội Hoa kỳ thông qua Đạo Luật Công Lý về Tội Ác Diệt Chủng tại Căm Bốt, “Cambodian Genocide Justice Act”. Đạo luật này cho phép – vào tháng 7/1994 – Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ thành lập Phòng Điều Tra Tội Ác Diệt Chủng tại Căm Bốt, “Office of Cambodian Genocide Investigations”. Phòng này có nhiệm vụ điều tra những tội ác tàn bạo của Khờ Me Đỏ trong thời gian từ 1975 đến 1979.
Tháng 1/1995, Phòng Điều Tra Tội Ác Diệt Chủng tại Căm Bốt đã tài trợ cho Đại Học Yale để thực hiện  Chương Trình về Nạn Diệt Chủng tại Căm Bốt, “Cambodian Genocide Program”, viết tắt là “CGP”, nhằm tìm kiếm, huấn luyện và thu thập tài liệu về chế độ Khờ Me Đỏ. Công việc của CGP là tìm kiếm chứng cứ để xác định xem các lãnh tụ Khờ Me Đỏ có phạm các tội ác chống nhân loại, tội ác chiến tranh và tội ác diệt chủng hay không? CGP là một chương trình hàn lâm có ba mục tiêu: 1) soạn thảo một tài liệu nghiên cứu và thư mục, “to prepare a documentation survey and index”; 2) nghiên cứu và biên soạn lịch sử, “to undertake historiographical research”; 3) cung cấp huấn luyện về pháp lý, “to provide legal training”.
Để theo đưổi ba mục tiêu nói trên, tháng 1/1995, CGP thành lập DC-Cam như một văn phòng tiền phương tại Phnom Penh. Văn phòng này được đặt dưới quyền một viên chức phụ trách về chương trình, Ông Youk Chhang, một người sống sót trong Cánh Đồng Giết Người của Khờ Me Đỏ. Kể từ ngày 1-1-1977, DC-Cam trở thành viện nghiên cứu độc lập về Căm Bốt, và là một tổ chức bất vụ lợi không phụ thuộc chính phủ hoặc bất cứ một tổ chức chính trị nào. DC-Cam nhận tài trợ rộng rãi từ các nguồn tài chánh quốc tế gồm những tổ chức tư nhân và các chính phủ như Hoa Kỳ (USAID), Swedish, Dutch…
Ban tham mưu của DC-Cam gồm toàn những người Căm Bốt, trong số này có nhiều người tốt nghiệp đại học tại Mỹ và Âu Châu. DC-Cam có một Hội Đồng Giám Đốc gồm 10 chuyên viên thượng thặng người Căm Bốt và một Hội Đồng Cố Vấn gồm 15 chuyên viên ngoại hạng về Căm Bốt. DC-Cam còn được sự trợ giúp của các học giả và chuyên viên tại Hoa Kỳ, Âu Châu và Á Châu về nhiều bộ môn  như luật pháp, công pháp quốc tế….DC-Cam là nguồn cung cấp thông tin và  tài liệu lớn nhất thế giới cho các học giả, các luật gia, các nhà hoạt động và công chúng về lịch sử  của thảm hoạ nhân loại do Đảng Cộng Sản Căm Bốt gây ra.
DC-Cam có hai mục tiêu chính. Mục tiêu thứ nhất là thu thập và lưu trữ những tài liệu lịch sử về
chế độ Khờ Me Đỏ để cho các thế hệ tương lai hiểu rõ giai đoạn lịch sử bi thảm này. Mục tiêu thứ hai là ghi chép, tổ chức, sắp xếp, những thông tin và dữ kiện thành những  chứng cứ pháp lý để chứng minh những tội ác của Khờ Me Đỏ. Hai mục tiêu trên đây cổ vũ cho sự Tưởng Nhớ và Công Lý. Đây là hai khái niệm căn bản đặt nền móng cho một nền pháp trị và sự hoà giải dân tộc chân thực cho Căm Bốt.
Để hoàn thành mục tiêu thứ nhất, DC-Cam đã sưu tầm và phân loại được 155,000 trang tài liệu gốc về Khờ Me Đỏ và hơn 6,000 bức ảnh. Hiện còn 400,000 trang tài liệu chờ phân loại. Năm 2009, DC-Cam đã biên soạn và phát hành quyển sách giáo khoa mang tên “Lịch Sử Kampuchea Dân Chủ” nói về lịch sử và tội ác của Đảng Cộng Sản Căm Bốt. Tính tới nay đã có 300,000 cuốn sách giáo khoa nói trên được phân phát tới tay học sinh, và dự trù đến cuối năm 2010 sẽ phát hành thêm 700,000 cuốn nữa. DC-Cam đã đề nghị và được Bộ Giáo Dục chấp thuận trong niên học sắp tới sẽ cho treo hai biểu ngữ có tính giáo dục tại 1,700 trường trung học trong toàn quốc. Nội dung của hai biểu ngữ đó như sau: “Hãy Nói Về Nỗi Chịu Đựng Đã Trải Qua Trong Suốt Thời Kỳ Cộng Sản Để Khuyến Khích Sự Hoà Giải Và Giáo Dục Thế Hệ Trẻ Về Lòng Độ Lượng Và Khoan Dung” và “Hãy Học Hỏi Về Lịch Sử Của Kampuchea Dân Chủ Để Ngăn Ngừa Nạn Diệt Chủng”. Hai tấm biểu ngữ này có kích thước ngoại khổ. Tấm biểu ngữ trước có kích thước 2m chiều ngang và 4m chiều dài; tấm biểu ngữ sau có kích thước bằng một nửa. Ngoài ra, môn học về tội ác diệt chủng của Khờ Me Đỏ cũng đã được chấp thuận đưa vào chương trình giáo dục bậc trung học.
Để hoàn thành mục tiêu thứ hai, DC-Cam đã cố gắng thu thập những chứng cứ như thư tịch, tiểu sử, hình ảnh, địa điểm và những sự kiện lên quan đến tội ác của Khờ Me Đỏ. DC-Cam đã xác định được địa điểm và toạ độ của 189 trại giam, 19,403 mồ chôn tập thể và 80 địa điểm diệt chủng. DC-Cam đóng góp rất nhiều trong việc giữ gìn Viện Bảo Tàng Diệt Chủng Tuol Sleng và khu di tích Cánh Đồng Giết Người Choeung Ek. DC-Cam đã đề nghị chính phủ bảo vệ và tu bổ những địa đìểm gây tội ác của Khờ Me Đỏ để trở thành những di tích lịch sử để tưởng niệm các nạn nhân. Những dữ kiện trên đây đã cung cấp những tài liệu giá trị cho các học giả, các nhà điều tra, các sử gia để tìm hiểu chính xác lịch sử tội ác của Đảng Cộng Sản Cam Bốt. DC-Cam cũng cung cấp những chứng cứ pháp lý cho Toà Án Đặc Biệt Căm Bốt.
Với sáng kiến và sự giúp đỡ của Chính Phủ Hoa Kỳ và Đại Học Yale, DC-Cam đã được thành lập để trở thành một viện nghiên cứu độc lập góp phần vào công việc hoà giải dân tộc tại Cam Bốt. Phương pháp hoà giải dân tộc của Cam Bốt dựa trên ba khái niệm: Công Lý, Sự Thật và Tưởng Nhớ. Sau đây xin tóm tắt ý nghĩa của ba khái niệm nói trên trong hoà giải dân tộc:
a) Khái niệm Công Lý trong hoà giải dân tộc – Mang bọn tội phạm cộng sản ra trước công lý là một thể hiện công bằng, trong sáng và minh bạch đối với những kẻ phạm tội cũng như đối với những nạn nhân của chúng. Công lý tạo được niềm tin tưởng của người dân về luật pháp quốc gia là để bảo vệ an ninh và hoà bình cho xã hội vốn đã bị cộng sản sử dụng như một công cụ khủng bố để đàn áp người dân. Công lý đặt nền móng cho cho một thể chế pháp trị rất cần thiết cho sự hoà giải chân thực để đoàn kết dân tộc, hướng tới tương lai.
b) Khái niệm Sự Thật trong hoà giải dân tộc – Một sự hoà giải chân chính đòi hỏi sự thật phải được trình bày một cách trung thực để:
  • Nạn nhân có quyền biết sự thật về những tội ác đã gây thống khổ cho họ. Sự thật cũng cần thiết để trả lại danh dự và bạch hoá những tội trạng mà chế độ cộng sản đã vu cáo chống lại họ.
  • Giúp thân nhân của các nạn nhân đã bị giết, bị thủ tiêu tìm hiểu những gì đã xẩy ra cho những người thân của họ và tìm được những di tích còn sót lại của những người này.
  • Giúp cho xã hội biết được nguồn gốc và nguyên nhân gây ra tội ác để tránh tái diễn.
c) Khái niệm Tưởng Nhớ trong hoà giải dân tộc – Một dân tộc không có ký ức để nhớ về quá khứ hoặc quên quá khứ, dân tộc đó sẽ vong thân và mất phương hướng. Tưởng nhớ hay tưởng niệm những nạn nhân đã hy sinh trong một biến cố lịch sử chính là để gây niềm thông cảm và tạo tình đoàn kết dân tộc để chống cái ác tái diễn. Tưởng nhớ những thảm hoạ cay đắng trong một giai đoạn lịch sử là để tạo niềm tin hướng tới một tương lai tốt đẹp hơn chứ không phải ôm lấy quá khứ để sống một cuộc sống nghèo nàn về tinh thần và tình cảm. Tưởng nhớ chính là để nhìn rõ Sự Thật, góp phần vào công cuộc hoà giải dân tộc chứ không phải khơi lại hận thù như Việt Cộng và tay sai hô hoán. Khi xây dựng những Đài Tưởng Niệm Thuyền Nhân Việt Nam trên khắp thế giới, người Việt hải ngoại đã chuẩn bị cho công cuộc hoà giải dân tộc dựa trên hai khái niệm Tưởng Nhớ và Sự Thật
Hoà giải dân tộc dựa trên ba khái niệmCông Lý, Sự Thật và Tưởng Nhớ là kinh nghiệm của hơn
30 quốc gia kể từ sau khi chấm dứt Thế Chiến II.  Đây là ba khái niệm mà Việt Cộng rất sợ. Chính vì sợ Sự Thật và Tưởng Nhớ mà chúng đang chống phá và tìm mọi cách để phá hoại những Đài Tưởng Niệm Thuyền Nhân Việt Nam trên khắp thế giới. Do đó, đừng bao giờ kêu gọi, gửi kiến nghị hoặc viết thư cho Việt Cộng yêu cầu chúng đứng ra hoà giải dân tộc. Chúng không có khả năng và tư cách để làm việc này. Chúng chỉ tuyên truyền, nói láo và lừa gạt.
Kết Luận
Thảm hoạ mà Đảng Cộng Sản Căm Bốt gây ra cho dân tộc Căm Bốt mang tính nhân loại. Do đó, cộng đồng thế giới đã giúp đỡ về pháp lý và tài chánh để hàn gắn vết thương và hoà giải dân tộc để chuyển tiếp từ chế độ độc tài cộng sản sang chế độ dân chủ pháp trị. Phương pháp hoà giải dân tộc của Căm Bốt đang diễn tiến có triển vọng tốt đẹp. Người Việt cần theo rõi, nghiên cứu để áp dụng vào Việt Nam sau này, bởi vì những tội ác mà Đảng Cộng Sản Căm Bốt gây ra cho dân tộc Căm Bốt cũng chính là những tội ác mà Đảng Cộng Sản Việt Nam đã phạm đối với dân tộc Việt Nam. Những tội ác này có cùng một nguồn gốc là các thứ Leninism, Stalinism và Maoism.
Như đã trình bày ở trên, băng đảng tội phạm Việt Cộng – mà bản chất của chúng là đấu tranh tiêu diệt giai cấp một cách sắt máu –  không có tư cách và cũng không có khả năng để hoà giải dân tộc. Đây là sự thật, và thực tế 35 năm nay đã chứng minh điều này. Toàn dân Việt Nam – với truyền thống văn hoá nhân bản – sẽ thực hiện được hoà giải dân tộc sau khi thanh toán xong chế độ cộng sản. Ngay từ bây giờ, các học giả, các nhà trí thức, các nhà nghiên cứu, các sử gia, các luật gia, các nhà hoạt động, các chính trị gia người Việt trên khắp thế giới nên thành lập một tổ chức xã hội dân sự như DC-Cam của Căm Bốt để chuẩn bị cho công cuộc hoà giải dân tộc – một công cuộc quy mô có tầm vóc lịch sử – sau khi thanh toán được chế độ Việt Cộng.
 Người Cuba cũng đã chuẩn bị cho một tiến trình hoà giải dân tộc trong tương lai 5, 10… năm nữa khi chế độ cộng sản Cuba sụp đổ. Tiến trình này do hai tác giả Armando M. Largo và Marria C. Verlau soạn thảo có tựa đề: “Đối Phó với Quá Khứ: Vai Trò của Sự Thật trong Hoà Giải Dân Tộc”, “Dealing with the Past: The Role of Truth in National Reconciliation”. Ngoài ra, người Cuba cũng đã được Ford Foundation và Open Society Institute tài trợ để  thành lập một tổ chức có tên: “Hoà Giải Dân Tộc Cuba: Lực Lượng Đặc Nhiệm về Tưởng Nhớ, Sự Thật và Công Lý”,  “Cuban National Reconciliation: Task Force on Memory, Truth and Justice”. Tổ chúc này – gồm hơn 20 nhà trí thức, học giả, giáo sư và các nhà hoạt động – có mục tiêu là nghiên cứu một phương thức hoà giải dân tộc dựa trên ba khái niệm Công Lý, Sự Thật và Tưởng Nhớ để chuyển tiếp từ chế độ độc tài cộng sản Cuba sang một thể chế dân chủ pháp trị. Đây là sự chuẩn bị trước cho một sự kiện lịch sử chắc chắn sẽ diễn ra:  Sự tiêu vong của chế độ cộng sản Cuba. Người Việt quốc gia tại hải ngoại cũng nên nghiên cứu, soạn thảo ngay từ bây giờ một tiến trình hoà giải dân tộc dựa trên ba khái niệm: Công Lý, Sự Thật và Tưởng Nhớ.  Sớm hay muộn, chắc chắn chế độ độc tài toàn trị Việt Cộng sẽ bị tiêu diệt.
 Hồ Chí Minh và băng đảng Việt Cộng đã tàn ác với chính đồng bào của chúng. Hơn ba triệu người Miền Nam đã phải liều chết vượt biển đi sống tha hương trên gần một trăm quốc gia và vùng lãnh thổ khắp thế giới. Những mất mát vật chất có thể bù đắp lại được, nhưng phải cắt lìa khỏi quê hướng để đi sống tha hương không biết ngày về là những mất mát thuộc về tinh thần và tình cảm không thể bù đắp được. Ngày hôm nay, hơn ba triệu người Việt đang sống tha hương trên khắp thế giới chỉ có một ước vọng duy nhất là trở về xây dựng lại quê hương đã bị băng đảng Việt Cộng làm đổ vỡ tan hoang. Điều này chứng tỏ rằng trong tiềm thức họ đã ấp ủ một tinh thần hoà giải dân tộc. Hoà giải để đoàn kết dân tộc là một nhu cầu lịch sử cấp thiết có tính sinh tử như đã trình bày từ đầu của bài viết này. Tuy nhiên, để có thể  hoà giải dân tộc, trước hết phải thanh toán cái băng đảng tội ác Việt Cộng bởi vì chúng là chướng ngại vật trên con đường hoà giải dân tộc  Đó là logic của lịch sử.
Đỗ Ngọc Uyển
(Khoá 4 Thủ Đức/ Binh Chủng T.T)

Không có nhận xét nào: