3.6.11

Tại sao Trung Cộng lấn chiếm tại Biển Ðông?


Tại sao Trung Cộng lấn chiếm tại Biển Ðông?

Vụ tàu hải giám của Trung Cộng cắt dây cáp của tầu Bình Minh 2 của PetroVietnam không phải là một biến cố lẻ loi, đơn giản, mà có thể là một bước nằm trong một chiến lược lâu dài của các nhà lãnh đạo Bắc Kinh.

Có những lý do chiến lược khiến Bắc Kinh muốn bảo đảm quyền hành động tự do của họ trong vùng Biển Ðông nước ta.Họ có thể đạt được mục đích này bằng nhiều cách, nhưng đứng trước những phản ứng yếu ớt của chính quyền Việt Nam từ hàng chục năm qua mỗi lần phải đương đầu với nước láng giềng thì họ đã chọn chiến thuật lấn chiếm từng bước một, để đặt thế giới trước những sự đã rồi.
Vụ Bình Minh 2 tuy không đổ máu, không giết người, nhưng quan trọng hơn hẳn những vụ cướp, chiếm tầu đánh cá trước đây. Bằng cớ là Hoàn Cầu Thời báo, một cơ quan ngôn luận của Cộng Sản Trung Hoa đã lên tiếng về biến cố này với những lời lẽ đe dọa nặng nề, một hiện tượng trước đây chưa bao giờ thấy. Nhật báo Asahi, Nhật Bản, cũng nói rằng Trung Quốc ngày càng cứng rắn trong tranh chấp chủ quyền ở Biển Ðông; vì Cục Quản Lý Ðại Dương của Bắc Kinh mới đây đưa ra một phúc trình khuyến cáo sử dụng vũ lực quân sự để đạt mục tiêu trong các cuộc tranh chấp lãnh thổ với các nước láng giềng.
Tạp chí Hoàn Cầu Thời báo ở Bắc Kinh ngày 30 Tháng Năm 2011 đã viết bài bình luận nói đến vụ cắt dây cáp tầu Bình Minh 2. Bài viết không ký tên tác giả nào, cho thấy đây là lập trường chung của đảng Cộng Sản Trung Quốc. Họ nhấn mạnh rằng vụ này là biến cố “nghiêm trọng nhất trong những năm gần đây.” Hoàn Cầu Thời báo, thuộc nhật báo Nhân Dân, Bắc Kinh, là cơ quan ngôn luận của đảng Cộng Sản Trung Quốc.
Ðiều đáng chú ý là bài báo này không hề nhắc đến những khẩu hiệu êm ái như “đồng chí, anh em, hợp tác toàn diện, 16 chữ vàng,” vân vân mà các ông Nông Ðức Mạnh, Nguyễn Tấn Dũng, Nguyễn Phú Trọng gần đây đã nhắc đi nhắc lại nhiều lần. Trái lại, tờ báo cảnh cáo bằng những lời đe dọa rất cứng rắn. Thí dụ, họ viết rằng việc tầu Bình Minh 2 đi khảo sát địa chấn là “thách thức lòng kiên nhẫn của Trung Quốc… Nếu như Việt Nam cứ tiếp tục hoạt động trong vùng biển chủ quyền của Trung Quốc, thì sẽ phải chịu trách nhiệm về hành vi của mình.”
Chúng ta biết rằng Bình Minh 2 chỉ hoạt động trong khu vực thuộc phạm vi “đặc quyền kinh tế” của nước ta, mà mỗi quốc gia đều có quyền đó trên vùng ven biển của mình. Khu vực này nằm hoàn toàn bên ngoài, ở về phía Tây của “đường chín đoạn” mà Trung Cộng đã vẽ trên bản đồ, coi Biển Ðông nước ta như là “ao nhà” của họ. Cả thế giới phủ nhận “vùng lưỡi bò” của Trung Cộng. Cho nên họ gây xung đột với Việt Nam, là để nhân cơ hội đó xác nhận “vùng biển chủ quyền của Trung Quốc,” đặt thế giới trước một sự đã rồi nếu mỗi lần bị họ lấn áp Việt Nam không phản đối mạnh mẽ, công khai, ra trước các cơ quan tài phán quốc tế.
Hoàn Cầu Thời báo đã đe dọa rằng “tình trạng tự kiềm chế của Trung Quốc không phải là không có giới hạn,” sau khi tố cáo tầu Bình Minh 2 vi phạm vùng chủ quyền của họ. Và họ còn nhắc nhở, “Trung Quốc là nước lớn, sức mạnh hơn hẳn Việt Nam!” Báo này đã đăng thêm những lời “góp ý kiến” của độc giả, và tất cả biểu lộ tinh thần đề cao Hán tộc, khinh thường người Việt Nam.
Liệu Trung Cộng có sẵn sàng tấn công Việt Nam để thực hiện quyền làm chủ vùng Biển Ðông hay không? Chắc họ sẽ không gây chiến tranh nếu có thể đạt được cùng một mục tiêu một cách hòa bình, theo lối tầm ăn dâu.
Nhưng đối với Trung Quốc, hoạt động tự do trong vùng Biển Ðông nước ta là một điều kiện thiết yếu về cả kinh tế lẫn quân sự. Chiếm được vùng này là bảo đảm an ninh cho Trung Quốc nếu xẩy ra chiến tranh với các cường quốc khác. Liệu những người cầm quyền ở Bắc Kinh có trù liệu sẽ có ngày lâm chiến với Mỹ, hay Ấn Ðộ, hoặc Nhật Bản hay không? Trong một tương lai gần thì chắc chiến tranh khó xẩy ra vì Trung Quốc còn quá yếu. Nhưng không ai tiên đoán được 50 năm đến 70 năm nữa thế giới sẽ như thế nào. Ðối với Bắc Kinh thì tốt nhất là hãy chuẩn bị sẵn sàng để nếu có chiến tranh thì Trung Quốc không bị phong tỏa kinh tế trên mặt biển, như Nhật Bản thời Ðại Chiến Thứ Hai.
Các nhà chỉ huy quân sự ở Trung Quốc chắc hẳn đã nghiên cứu lịch sử để thấy bài học Nhật Bản thất trận. Hiện nay hơn ba phần tư số nhập cảng về dầu khí, nguyên liệu của Trung Quốc đang phải chuyển qua eo biển Malacca giữa Indonesia và Mã Lai Á, rồi đi qua ngang vùng Biển Ðông của nước ta để tiếp tế cho các nhà máy hoạt động trong lục địa. Tình trạng này không khác gì Nhật Bản trước cuộc Ðại Chiến Thứ Hai.
Quân đội Thiên Hoàng thua năm 1945 không phải vì những người lính Nhật và cấp chỉ huy của họ yếu kém. Lý do khiến Nhật gây chiến với Mỹ, rồi thua trận, đều vì kinh tế bị phong tỏa.
Trước chiến tranh, Nhật Bản là quốc gia xuất cảng đứng hàng thứ tư trên thế giới; hàng hải thương thuyền có trọng tải đứng hàng thứ ba; trong thập niên 1930 kinh tế Nhật phát triển nhanh chóng, bành trướng sang Mãn Châu, Cao Ly, rồi vào Trung Quốc trong khi cả thế giới lâm vào cảnh đại khủng hoảng. Số sản xuất công nghiệp Nhật lớn hơn tất cả các nước Á Châu khác cộng lại. Số công nhân trong các công nghiệp tăng từ 5.8 triệu năm 1930 lên tới 9.5 triệu năm 1944.
Sau khi quân Nhật tiến vào Việt Nam với sự thỏa thuận của chính quyền thuộc địa Pháp, năm 1941 Hải Quân Mỹ đã bắt đầu ngăn cản các tầu chở dầu lửa của Nhật đi qua vùng biển Ðông Nam Á. Nhật đã tấn công Pearl Harbor vì nghĩ rằng có thể làm tê liệt lực lượng Hải Quân Mỹ ở Thái Bình Dương, để buộc Mỹ phải đứng ngoài. Giới tướng lãnh Nhật đã tính lầm vì hoàn toàn không biết gì về tiềm năng kinh tế của Mỹ. Trong những năm từ 1942 đến 1945, Mỹ sản xuất hơn 2,000 triệu tấn than đá, Nhật chỉ có dưới 200 triệu tấn; Mỹ sản xuất 6,660 triệu thùng dầu, Nhật dưới 30 triệu; Mỹ chế tạo 280,000 máy bay, Nhật chỉ có 65,000. Những năm sau cùng 1944, 45, sức mạnh của quân đội Nhật tàn dần vì kinh tế suy yếu, càng ngày càng yếu, khi lực lượng tầu ngầm, Không Quân và Hải Quân Mỹ tấn công các tầu chở hàng của Nhật trong Ðông Nam Á, trong đó có vùng Biển Ðông nước ta.
Nên nhớ đến năm 1945 Nhật vẫn chiếm đóng Mãn Châu, Hàn Quốc, Ðài Loan, các vùng duyên hải Trung Quốc, cùng Miến Ðiện, Việt Nam, chính phủ Nhật tự do bóc lột tài nguyên các nước này, phục vụ guồng máy chiến tranh. Nhưng bấy nhiêu vẫn chưa đủ. Nhật Bản cần ít nhất mỗi năm 6 triệu tấn dầu mua từ Miến Ðiện, từ Borneo và các đảo thuộc Indonesia bây giờ, vì trong nước chỉ sản xuất được 250,000 tấn. Dầu nhập cảng về Nhật phải đi qua vùng Biển Ðông nước ta, cũng như tình trạng Trung Quốc bây giờ.
Chỉ tới Tháng Ba năm 1945 máy bay Mỹ mới đánh bom vào các thành phố Nhật một cách quy mô; nhưng kinh tế Nhật đã co cụm vì bị phong tỏa trên mặt biển khi tầu ngầm Mỹ bắt đầu tấn công các thương thuyền chở hàng hóa, nguyên liệu và dầu lửa từ năm 1944. Năm đó, Nhật Bản tiêu thụ gần 20 triệu thùng dầu nhưng chỉ nhập cảng được 5 triệu vì bị tầu ngầm Mỹ ngăn cản. Riêng tầu ngầm Flasher đã đánh đắm 21 chiếc tầu thủy Nhật, trong đó có 4 tầu chở dầu chở mỗi chiếc 100,000 thùng dầu; trong Tháng Mười Hai năm 1944 tầu ngầm này đã làm cho số dầu lửa về đến nước Nhật giảm bớt 2 phần ba. Trong năm đó, tầu ngầm Mỹ đánh hư hơn 600 thương thuyền Nhật tổng cộng trọng tải 2.7 triệu tấn. Số hàng nhập cảng vào nước Nhật giảm 40%. Vào lúc cuối cuộc chiến, kinh tế Nhật chỉ bằng 10% của Mỹ, mà một lý do chính là không đủ nguyên liệu và dầu lửa, nhiều nhà máy bỏ trống không dùng đến. Từ đầu năm 1945 Nhật Bản không còn sức tiếp tế cho các đạo quân viễn chinh, vũ khí không sản xuất đủ, trang bị kỹ thuật cho quân sĩ như máy radar, máy truyền tin, không tân tiến bằng quân Ðồng minh vì các ngành khoa học, kỹ thuật và việc sản xuất trong nước bị tê liệt.
Thua kém vì kỹ thuật tiến chậm là một yếu tố thua trận. Ở Miến Ðiện, quân Nhật đã bị quân Anh đánh lừa bằng kế dương Ðông kích Tây; đánh vào hai địa điểm ở phía Tây Mandalay để nhử quân Nhật, nhưng cuối cùng tấn công vào yếu điểm ở phía Nam để chặn đường tiếp tế từ Rangoon lên. Quân Nhật bị lừa vì hệ thống truyền tin quá cổ lỗ! Tháng Ba 1945, Tướng Masaki Honda tại mặt trận Meiktila, Miến Ðiện báo cáo lên cấp chỉ huy: “Trong 2 sư đoàn của tôi, không tới 20 khẩu súng còn hoạt động bình thường… Súng chống xe tăng của chúng ta bắn trúng xe địch nhưng đạn bị văng ra!” Tháng Năm năm 1945, phi công Nhật Masashiko Ando bay thám thính khám phá một tầu ngầm Mỹ ở ngoài khơi Cam Ranh. Ando bay trên cao 2000 mét, quay đầu để đuổi theo phía sau chiếc tầu ngầm, xuống thấp, tới 200 mét thì thả loại bom chìm sâu chống tầu ngầm xuống mục tiêu, nơi chiếc tầu mới lặn. Ando về Cam Ranh, báo cáo đã thành công. Nhưng chiếc tầu ngầm Mỹ đã thoát nạn, vì kỹ thuật “lặn nhanh” của tầu Mỹ đã tiến xa hơn Nhật. Chỉ trong 35 giây đồng hồ là tầu đã lặn rất sâu, trong khi bom Nhật không xuống được sâu như vậy!
Không một quốc gia nào có thể nhắm mắt không nhìn thấy bài học thất trận của Nhật Bản trong cuộc Ðại Chiến Thứ Hai, sau khi kinh tế bị phong tỏa. Nếu những người lãnh đạo Trung Quốc lo xa có ngày nước họ phải lâm chiến, thì họ sẽ phải lo bảo đảm các con đường tiếp liệu. Trên đất liền, Trung Quốc đang thiết lập những ống dẫn dầu từ các nước vùng Trung Á, từ Iran, vân vân, qua miền Tây nước họ; và cả dự án ống dẫn dầu từ bờ biển Miến Ðiện đi lên Vân Nam. Ðồng thời, họ thiết lập đầu cầu cho các căn cứ hải quân ở bờ biển Miến Ðiện, trong khi nhòm ngó cả Campuchia. Bộ tham mưu chiến lược của họ chắc phải đặt câu hỏi: Tại sao không nhắm tới bờ biển Việt Nam? Năm 1945, máy bay diệt tầu ngầm của Nhật đã xuất phát từ phi trường Cam Ranh đi tìm bắn các tầu ngầm Mỹ.
Trung Cộng có cần phải chiếm để sử dụng các hải cảng của Việt Nam hay không? Chắc họ không cần. Vì các hòn đảo ở Hoàng Sa và Trường Sa cũng đủ để thiết lập các phi trường và căn cứ bảo vệ con đường hàng hải trong vùng Ðông Nam Á. Nhưng Trung Cộng nhất thiết phải được tự do hoạt động, nếu có thể thì làm chủ cả vùng Biển Ðông, để bảo đảm con đường tiếp liệu này. Hiện nay Phi Luật Tân, Indonesia và Singapore đều thân Mỹ, eo biển Malacca bị Mỹ kiểm soát. Chỉ còn có một nước Việt Nam có thể là nơi Trung Cộng có thể dùng để củng cố thêm cho hàng rào bảo vệ đường tiếp tế cho họ.
Giờ đây Trung Cộng không thể gây chiến rồi chiếm Việt Nam, vì cả thế giới sẽ ngăn cản. Bộ trưởng Quốc Phòng Mỹ đang tới dự một Hội nghị Shangri-La về an ninh vùng ở Singapore; từ năm ngoái các nước Ðông Nam Á đã yên tâm vì chính phủ Mỹ không bỏ rơi vùng này. Nhưng dù không gây chiến, Trung Quốc vẫn có thể tìm lý do để “cho Việt Nam một bài học” rồi lại rút về ngay, như Ðặng Tiểu Bình đã làm trước đây. Nói cho cùng thì ngày nay một cường quốc cũng không cần chiếm đóng một nước khác mà vẫn thiết lập được một chính quyền hoàn toàn nghe theo lời của họ, bằng những phương pháp mua chuộc, dọa nạt!
Vì vậy, chúng ta cần phải chứng tỏ cho cả thế giới thấy nhân dân Việt Nam không chấp nhận quyền bá chủ của Trung Quốc bằng cách phản đối mạnh mẽ những vụ xâm phạm hải phận nước ta. Chính quyền Việt Nam phải bày tỏ thái độ một cách cứng rắn hơn, không khiếp nhược trước những lời đe dọa của Hoàn Cầu Thời báo. Một cách cụ thể, Ðảng Cộng Sản Việt Nam phải chính thức rút lại một lá thư mà ông Phạm Văn Ðồng đã ký năm 1958, trong đó ông nhân danh một chính phủ Việt Nam tỏ ý hoàn toàn ủng hộ bản “Tuyên bố của Chính phủ Nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa về Lãnh hải” ngày 4 Tháng Chín năm 1958. Vì bản Tuyên bố này công nhiên nói Hoàng Sa và Trường Sa thuộc về Trung Quốc. Lá thư trên là một hành động phản quốc, mà hậu quả là từ đó Bắc Kinh coi Việt Nam như một nước do họ bảo hộ. Phải chấm dứt tình trạng đó!
Chú thích: Các con số và chi tiết về Ðại Chiến Thứ Hai trong bài này dẫn từ sách Retribution: The Battle for Japan 1944-45, của Max Hastings, in năm 2009.
9
0
 
Rate This
Đăng trong Ngô Nhân Dụng
Be the first to like this post.

8 Responses to Tại sao Trung Cộng lấn chiếm tại Biển Ðông?

  1. VAN HOA .
    NGUOI VIET NAM TRONG NUOC VA HAI NGOAI ,CUNG 1 LONG CHONG LAI BON TAU BANH TRUONG .BANG MOI CACH THE ,TREN MOI LANH VUC .
    0
    0
     
    Rate This
  2. HA LAN.
    HOAN HO LONG YEU NUOC CUA CONG TY DU LICH CANAAN TOURIST .CHAC CHAN SE CO NHIEU CONG TY VA NGUOI VIET TRONG VA NGOAI NUOC CUNG SE NOI THEO TAM GUONG YEU NUOC CUA CONG TY CANAAN
    0
    0
     
    Rate This
  3. THAI BINH
    SU NGAO MAN VA XAM LANG VIET NAM LAN NAY .SE LA 1 BAI HOC CANH TINH THE GIOI TRUOC DAI HOA BANH TRUONG CUA BON TAU . VI THE TAT CA MOI LANH VUC CUA BON TAU SE DEU XUONG DOC .KINH TE CUA CHUNG SE TUOT DOC .VA NGUOI VIET SAN SANG TAY CHAY HANG HOA CUA TAU
    0
    0
     
    Rate This
  4. vinh ha
    CHINH PHU VIET NAM .CAN HOP TAC VOI MY VA CUNG NHAN DAN VIET NAM CHONG TRA BON TAU 1 CACH MANH ME .MOI MONG DUOC QUOC TE TRO GIUP .CHAC CHAN THANG LOI SE THUOC VE NHAN DAN VIET NAM . QUA SU XAM LANG NAY .DAN VIET NAM SE DOAN KET ,SE YEU NUOC VA SE KHONG CON XAI DO CUA BON TAU .KINH TE ,THUONG MAI VA UY TIN CUA CHUNG SE GIAM DANG KE TREN THE GIOI
    0
    0
     
    Rate This
  5. vinh ha
    VIET NAM KHONG THE LUI BUOC TRUOC SU XAM LANG CUA BON TAU .DUOC DANG CHAN ,LAN DANG DAU .HAY CHONG TRA CHUNG 1 CACH MANH ME .MOI MONG DUOC QUOC TE TRO GIUP .CHAC CHAN THANG LOI SE THUOC VE NHAN DAN VIET NAM .VI VOI QUYEN SACH DEATH BY CHINA .THE GIOI DA NHIN RO BO MAT NHAM NIEM VA VO LIEM SI CUA BON TAU
    0
    0
     
    Rate This
  6. Hồ Dâm Dật
    Phản ứng của Việt Nam so với các nước về hành động bắt nạt của Trung Quốc
    Ngọc Trân, thông tín viên RFA
    2011-06-02
    *
    Những năm gần đây, Trung Quốc liên tục có hành động khiêu khích và bắt nạt các nước trên biển. Ngoài Việt Nam, các nước như Malaysia, Indonesia, Nhật Bản, và Philippines…cũng đã từng bị Trung Quốc quấy nhiễu trong thời gian qua.
    AFP
    Bộ ngoại giao Phillipines cho phổ biến ảnh tàu Trung Quốc xâm phạm vùng biển đặc quyền kinh tế gần đảo chính Palawan của nước này hôm và 24 tháng 5, 2011.
    Cùng bị Trung Quốc bắt nạt, nhưng phản ứng của các nước trong khu vực đối với hành động hiếu chiến của Trung Quốc hoàn toàn khác, so với phản ứng của chính phủ Việt Nam. Thông tín viên Ngọc Trân tổng hợp và tường trình.
    Việt Nam: chỉ “đánh võ mồm”!
    Rạng sáng ngày 26 tháng 5 vừa qua, ba tàu hải giám của Trung Quốc đã ngang nhiên cắt cáp, phá hoại thiết bị thăm dò dầu khí của tàu Bình Minh 02, thuộc Tập đoàn Dầu khí Việt Nam, khi con tàu này đang hoạt động trong khu vực thuộc phạm vi thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý của Việt Nam.
    Hành động của các tàu Trung Quốc này, ngoài việc xâm phạm lãnh hải Việt Nam, vi phạm các công ước quốc tế mà Trung Quốc đã ký và cam kết từ trước tới nay, còn thể hiện cách hành xử kém văn minh của một nước lớn, đối với một nước láng giềng trong khu vực. Hành động này đi ngược lại chủ trương của giới lãnh đạo Trung Quốc, mà ba ngày trước đó, ông Lương Quang Liệt, Bộ trưởng Quốc phòng Trung Quốc, đã lên tiếng kêu gọi các nước trong khu vực tự kềm chế, tránh xung đột trên biển Đông.
    Sau khi xâm phạm và quấy nhiễu lãnh hải Việt Nam hồi tuần qua, Bộ Ngoại giao Trung Quốc còn ra thông cáo, nói rằng, đó là vùng biển thuộc chủ quyền của Trung Quốc, và Trung Quốc đang “hoạt động bình thường trong vùng biển chủ quyền” của mình.
    Phản đối lại hành động xâm phạm chủ quyền của Trung Quốc, cũng như bao lần trước, ở cấp cao nhất phía Việt Nam vẫn chỉ là phát ngôn Bộ Ngoại giao. Lần này cũng vậy, sau khi gặp đại diện sứ quán Trung Quốc để trao công hàm phản đối hành động của Bắc Kinh, ba ngày sau sự kiện nói trên xảy ra, bà Nguyễn Phương Nga, phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam, đã tổ chức họp báo, yêu cầu Trung Quốc chấm dứt vi phạm chủ quyền và bồi thường thiệt hại cho phía Việt Nam.
    Malaysia: phản đối bằng chiến đấu cơ và tàu chiến rượt đuổi
    Tàu Bình Minh 02 của Việt Nam.Source Petro Vietnam PVN
    Khác với Việt Nam, khi bị Trung Quốc quấy nhiễu, các nước trong khu vực đã có thái độ và hành động khá cứng rắn. Mặc dù mức độ và tần suất vi phạm lãnh hải Việt Nam của Trung Quốc là nghiêm trọng hơn so với các nước khác, mặc dù các tàu Trung Quốc chỉ ở mức độ khiêu khích đối với các nước trong khu vực, chứ chưa có hành động phá hoại như đã cắt cáp thăm dò dầu khí mà họ đã làm đối với tàu Bình Minh 02 của Việt Nam, thế nhưng Trung Quốc đã từng bị tàu chiến và máy bay của các nước rượt đuổi.
    Báo chí Trung Quốc cho biết, cuối tháng 4 năm ngoái, các tàu ngư chính của họ đã phải đối đầu căng thẳng với tàu chiến và chiến đấu cơ của Malaysia khi vi phạm lãnh hải nước này. Các tàu ngư chính của Trung Quốc đã bị tàu chiến Malaysia rượt đuổi liên tục trong khoảng thời gian 17 tiếng đồng hồ
    Tháng 4 năm ngoái, nhằm phô trương sức mạnh quân sự trên biển, Bắc Kinh đã điều các tàu ngư chính đến tuần tra trên vùng biển Trường Sa. Trong đợt tuần tra này, Bắc Kinh đã gặp phải sự phản kháng mạnh mẽ của Malaysia khi tàu tuần tra Trung Quốc đi vào vùng biển của nước này.
    Báo chí Trung Quốc cho biết, cuối tháng 4 năm ngoái, các tàu ngư chính của họ đã phải đối đầu căng thẳng với tàu chiến và chiến đấu cơ của Malaysia khi vi phạm lãnh hải nước này. Các tàu ngư chính của Trung Quốc đã bị tàu chiến Malaysia rượt đuổi liên tục trong khoảng thời gian 17 tiếng đồng hồ vào một ngày cuối tháng 4 năm 2010, khi tuần tra ở vùng biển Malaysia.
    Tin tức còn cho biết thêm, khi tàu ngư chính Trung Quốc đi vào vùng đặc quyền kinh tế của Malaysia, tàu chiến Malaysia được trang bị tên lửa đạn đạo, đã tiến vào tàu ngư chính Trung Quốc, chĩa pháo hạm vào những con tàu này, trong khi các binh lính trên tàu Malaysia trong tư thế sẵn sàng chiến đấu để bảo vệ chủ quyền. Cùng lúc, Malaysia đã cho máy bay chiến đấu bay lượn trên bầu trời, nơi bên dưới là tàu Trung Quốc, với mục đích cảnh cáo Bắc Kinh xâm phạm lãnh hải của Malaysia.
    Indonesia: bắt giữ tàu Trung Quốc và phản đối lên LHQ
    Không lâu sau đó, Bắc Kinh cũng đã gặp phải phản ứng mạnh mẽ của Indonesia khi đưa các tàu ngư chính có trang bị vũ khí, hộ tống các tàu đánh cá Trung Quốc, đánh bắt cá ở khu vực gần quần đảo Natura, thuộc Indonesia.
    các tàu đánh cá và thuyền viên Trung Quốc đã từng bị tàu hải quân Indonesia bắt giữ khi ngang nhiên đánh bắt cá trong vùng đặc quyền kinh tế của Indonesia. Báo Tân Hoa xã của Trung Quốc cũng đã xác nhận tin này
    Báo Mainichi của Nhật, dẫn lời một viên chức chính phủ Indonesia, cho biết, khoảng giữa năm ngoái, các tàu đánh cá và thuyền viên Trung Quốc đã từng bị tàu hải quân Indonesia bắt giữ khi ngang nhiên đánh bắt cá trong vùng đặc quyền kinh tế của Indonesia. Báo Tân Hoa xã của Trung Quốc cũng đã xác nhận tin này và cho biết thêm, các thủy thủ và tàu đánh cá Trung Quốc đó chỉ được thả sau các cuộc đàm phán giữa hai bên.
    Ngoài việc bắt giữ tàu và thủy thủ Trung Quốc, hai tuần sau sự cố nói trên, Indonesia đã gửi công hàm lên Liên Hiệp quốc, phản đối việc đòi chủ quyền của Trung Quốc trên Biển Đông là vô căn cứ. Trong công hàm đệ trình lên Liên Hiệp quốc hồi tháng 7 năm ngoái, Indonesia cho biết, họ không tranh chấp chủ quyền trên Biển Đông, mà chỉ đứng ở vai trò trung gian, phản đối việc Trung Quốc tuyên bố chủ quyền trên gần như
    Trung Quốc không ngưng phô trương lực lượng trên biển Đông trong những lần tập trận. AFP
    toàn bộ Biển Đông, là thiếu cơ sở pháp lý và xâm phạm lợi ích chính đáng của cộng đồng quốc tế.
    Indonesia cũng đã yêu cầu Tổng Thư ký Liên Hiệp quốc chuyển bức thư đó tới tất cả các thành viên của Ủy ban Thềm lục địa và các nước thành viên đã ký Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển, cùng tất cả các thành viên Liên Hiệp Quốc, để tố cáo hành động bá quyền của Bắc Kinh.
    Nhật: bắt giữ thuyền trưởng tàu Trung Quốc
    Sau khi bắt nạt hai nước Malaysia và Indonesia trên biển Đông, Trung Quốc chuyển sang biển Hoa Đông để thử phản ứng của Nhật Bản. Đầu tháng 9 năm ngoái, được sự ủng hộ của Trung Quốc, tàu đánh cá Mân Tấn Ngư của nước này đã đâm vào hai tàu tuần duyên Nhật Bản, gần quần đảo Senkaku mà phía Trung Quốc gọi là Điếu Ngư đài. Ngay lập tức, Nhật Bản đã bắt giữ ông Chiêm Kỳ Hùng, thuyền trưởng tàu đánh cá Trung Quốc, cùng thủy thủ đoàn trên chiếc tàu này.
    Phía Trung Quốc đã liên tục triệu tập đại sứ Nhật Bản đến để phản đối việc bắt giữ thuyền trưởng tàu đánh cá Trung Quốc. Kế đến là người đứng đầu Bộ Ngoại giao Trung Quốc, cùng cùng thủ tướng nước này cũng đã lên tiếng răn đe Nhật, rằng Bắc Kinh sẽ có biện pháp mạnh nếu Tokyo không thả thuyền trưởng tàu Mân Tấn Ngư. Vài ngày sau tuyên bố của ông Ôn Gia Bảo, Trung Quốc cũng đã trả đũa kinh tế đối với Nhật Bản, bằng cách ngưng xuất khẩu đất hiếm sang Nhật để gây áp lực, buộc chính phủ Nhật thả thuyền trưởng tàu đánh cá Trung Quốc.
    Khác với cách giải quyết vấn đề của Việt Nam, Nhật Bản đã tỏ ra cứng rắn hơn. Họ giữ tàu và bắt thủy thủ đoàn Trung Quốc ngay lập tức để điều tra. Đã hai lần phía Nhật gia hạn thêm thời gian tạm giam đối với thuyền trưởng tàu Trung Quốc, bất kể điều đó có thể ảnh hưởng đến quan hệ Nhật-Trung
    Mặt dù vụ bắt giữ này đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến quan hệ Trung-Nhật, thế nhưng Tokyo đã không chùn bước trước những áp lực của Bắc Kinh. Nhà nghiên cứu Đinh Kim Phúc đã so sánh phản ứng của chính phủ Nhật với chính phủ Việt Nam như sau: “Khác với cách giải quyết vấn đề của Việt Nam, Nhật Bản đã tỏ ra cứng rắn hơn. Họ giữ tàu và bắt thủy thủ đoàn Trung Quốc ngay lập tức để điều tra. Đã hai lần phía Nhật gia hạn thêm thời gian tạm giam đối với thuyền trưởng tàu Trung Quốc, bất kể điều đó có thể ảnh hưởng đến quan hệ Nhật-Trung”.
    Philippines: cho chiến đấu cơ rượt đuổi và phản đối lên LHQ
    Đầu tháng 3 năm nay, Trung Quốc cũng đã gặp phải phản ứng mạnh mẽ của Manila khi các tàu Trung Quốc quấy nhiễu tàu Philippines ở khu vực gần phía Tây Palawan. Ngay lập tức, Philippines điều hai máy bay
    Bản đồ khu vực tranh chấp trên biển Đông. AFP GRAPHIC.
    chiến đấu đến hiện trường, để đuổi tàu tuần tra của Trung Quốc ra khỏi khu vực.
    Trung Quốc cũng đã gặp phải phản ứng mạnh mẽ của Manila khi các tàu Trung Quốc quấy nhiễu tàu Philippines ở khu vực gần phía Tây Palawan. Ngay lập tức, Philippines điều hai máy bay chiến đấu đến hiện trường, để đuổi tàu tuần tra của Trung Quốc ra khỏi khu vực
    Cùng lúc, ông Albert Del Rosario, Ngoại trưởng Philippines lên tiếng phản đối và yêu cầu phía Trung Quốc giải thích hành động này. Ông Rosario cho biết: “Có một sự chạm trán giữa một con tàu Philippines với hai tàu Trung Quốc, ở khu vực phía Tây Palawan, làm cho tàu Philippines chuyển hướng. Chúng tôi đang yêu cầu Trung Quốc giải thích về những gì đã xảy ra và chúng tôi đang đối thoại với họ”.
    Một ngày sau sự cố xảy ra, phái đoàn thường trực của Philippines tại Liên Hiệp quốc đã gửi công hàm tới Tổng Thư ký LHQ để phản đối Trung Quốc, bác bỏ yêu sách “đường lưỡi bò” của Bắc Kinh. Philippines cho rằng, tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc trên Biển Đông không tuân theo luật pháp quốc tế.
    Trở lại vấn đề Việt Nam, những năm gần đây, các tàu tuần tra Trung Quốc cố tình vi phạm lãnh hải Việt Nam khi tuần tra trên vùng biển nước ta, hoặc hộ tống các tàu Trung Quốc, đánh cá ở vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam.
    Lịch sử Việt Nam có nhiều bài để học. Vấn đề là học như thế nào và hành ra sao để ngăn chặn được nguy cơ không chỉ riêng cho dân tộc mà còn là nguy cơ đối với đảng cầm quyền và những người lãnh đạo đất nước
    So với các nước trong khu vực, mức độ vi phạm lãnh hải của Trung Quốc đối với Việt Nam là nghiêm trọng, trong khi phản ứng của chính phủ Việt Nam không đủ mạnh, nên không thể ngăn các hành động của Trung Quốc quấy nhiễu lãnh hải nước ta. Phản ứng yếu ớt của chính phủ Việt Nam càng làm cho Trung Quốc tin rằng, Việt Nam rất dễ bị bắt nạt, và thực tế cho thấy Trung Quốc ngày càng leo thang trong việc bắt nạt Việt Nam.
    Để kết thúc, chúng tôi xin mượn lời của nhà nghiên cứu Đinh Kim Phúc: “Khi đã có một Đặng Tiểu Bình tuyên bố biển Đông là ‘chủ quyền thuộc ngã’ và khi Trung Quốc tuyên bố biển Đông là khu vực ‘lợi ích cốt lõi’ của họ, thì khó dùng tinh thần hiếu hòa của người Việt để ngăn chặn tham vọng của phương Bắc. Lịch sử Việt Nam có nhiều bài để học. Vấn đề là học như thế nào và hành ra sao để ngăn chặn được nguy cơ không chỉ riêng cho dân tộc mà còn là nguy cơ đối với đảng cầm quyền và những người lãnh đạo đất nước
    2
    0
     
    Rate This
  7. Trung cọng đang dồn sức để hiện đại hóa kinh tế, cần hòa bình một thời gian. Mỹ cần đồng minh để chống khủng bố. Hiện nay, cả hai đại cường đất và siêu cường biển chọn dung hòa quyền lợi, thõa hiệp hơn là gây hấn chiến tranh.
    Chẳng ai dám bảo đãm Mỹ sẽ chăm chăm giữ nguyên trạng. Chẳng ai tin Trung cọng hạn chế tham vọng đến ngần ấy mà thôi. Đài Loan là thùng thuốc súng có thể nổ tung bất cứ lúc nào.
    Tàu và Mỹ đều có hai mặt: Đối kháng và hợp tác. Cho nên họ chơi ngầm nhau trong mọi lãnh vực: chiến tranh gián điệp, tình báo; chiến tranh kinh tế, chính trị, ngoại giao; chiến tranh hù dọa v.v… và v.v…
    Trung cọng đang cúi đầu đi lên với chiến lược che dấu tham vọng bành trướng dưới chiêu bài một cường quốc đi lên một cách hòa bình (hòa bình theo kiểu Trung cọng qua hai ngàn năm lịch sử với cái bệnh Hội Chứng Đại Hán!) Mỹ “tỏ ra” không có nhu cầu chiến lược tranh giành ảnh hưởng trên lục địa , nhưng với chiêu bài dân chủ và nhân quyền, Mỹ khống chế nhiều nước trên thế giới.
    Lịch sử chứng minh rằng, các cường quốc không phải chỉ muốn trở thành cường quốc mạnh nhất mà thôi, hơn thế nữa, trở thành cường quốc bá chủ thiên hạ ; đặt biệt Trung cọng bình thiên hạ là truyền thống, thực hiện chủ nghĩa bành trướng: qua lịch sử, bình thiên hạ là chiếm đất, là đồng hóa người ở phía nam sông Dương Tử trở thành Tầu.
    Trung Quốc đã dùng chiêu bài “Bình thiên hạ” để đánh lừa thiên hạ, che dấu tham vọng bành trướng với bệnh trầm kha Hội Chứng Đại Hán.
    Tây Phương – Bắc Mỹ cũng dùng chiêu bài vô cùng cao đẹp không kém Trung cọng “Văn minh hoàn vũ”, chính sách toàn cầu hóa, xu thế tất yếu của thời đại. Các cường quốc phương Tây và Bắc Mỹ đã lợi dụng những bảng quảng cáo vô cùng hoa lệ đó với lý tưởng dân chủ và nhân quyền để khống chế các nước trên thế giới.
    Thế nhưng, với hệ thống quốc tế ngày nay, không nước nào có thể trở thành bá chủ thật sự trên khắp thế giới vì không thể dồn sức cùng một lúc trên khắp mọi nơi.
    Tóm lại, có thể nói hiện nay cả Tầu lẫn Mỹ, không ai muốn loại trừ ai, bằng chiến tranh, tuy cả hai đang cạnh tranh nhau, tìm mọi cách bành trướng thanh thế trong vùng ảnh hưởng của nhau.
    Mỹ đang bận rộn ở Trung Đông, hơn nữa Mỹ cần đồng minh để chống khủng bố, chống tái phát vũ khí nguyên tử, tránh một Việt Nam thứ hai trên lục địa châu Á, giới kỷ nghệ doanh thương Mỹ xem Trung cọng là đất hứa với một tỉ ba trăm triệu dân …?!?!?!
    Cuối cùng thì bắt buộc csVN phải áp dụng “theo trào lưu tiến hóa thời đại” . Tức là phải thực thi phán quyết của TS Cù Huy Hà Vũ : Ðồng hành quân sự với Hoa Kỳ là mệnh lệnh của thời đại .
    Vì (trích) “cuộc họp thượng đỉnh G8 – 2011 năm nay có ý nghĩa đặc biệt đối với thời cuộc quốc tế.
    Khẩu hiệu duy nhất được trưng bằng tiếng Pháp trong phòng họp lớn là: Nouveau Monde – Nouvelles Idées (nghĩa là Thế giới Mới – Ý tưởng Mới).
    Và thế giới mới được hiểu là thế giới đang thay đổi trên quy mô toàn cầu, theo hướng tự do, dân chủ và hợp tác, chống lại mọi thế lực độc đoán, đàn áp của thế giới cũ. Ý tưởng mới là các nước dân chủ phát triển cao cần chung sức ủng hộ mạnh mẽ, kịp thời mọi trào lưu tiến bộ đòi tự do, bình đẳng, và khi cần thiết phải có nghĩa vụ can thiệp bằng quân sự, chống lại tội ác đàn áp, tàn sát của các chế độ độc đoán, bảo vệ tính mạng của nhân dân ở mọi nơi, và khi chế độ độc đoán đã chấm dứt các nước phát triển có nghĩa vụ giúp đỡ, tài trợ quy mô cho các nước ấy xây dựng cả về chính trị, kinh tế – tài chính và văn hóa có hiệu quả.
    Thông điệp mới của 8 nước hùng mạnh nhất thế giới năm nay thật mạnh mẽ, rõ ràng, vừa cổ vũ nhân dân còn bị áp bức đứng dậy đấu tranh không ngần ngại, vừa cảnh cáo rất nghiêm khắc mọi chế độ áp bức và đàn áp nhân dân, những thế lực suy tàn của thế giới cũ, tuy còn tồn tại nhưng đã thuộc về quá khứ.” (hết trích)
    tnt
    2
    0
     
    Rate This
  8. 000
    “Nếu bọn Việt Cộng thắng, thì quốc-gia Việt-Nam cũng sẽ bị tiêu-diệt và sẽ biến thành một tỉnh nhỏ của Trung-hoa Cộng-sản. Hơn nữa toàn-dân sẽ phải sống mãi mãi dưới ách độc tài của một bọn vong bản vô gia đình, vô tổ quốc, vô tôn giáo.” . Ngô Đình Nhu.

Không có nhận xét nào: