“Nhưng trên hết là chị đã được Thiên Chúa giải thoát…”. Đó là, câu nói mà có lẽ là của vị Linh mục trong một đoạn phim: “Giải cứu một phụ nữ bị xích 2 năm trong rừng của Ban truyền thông Giáo phận Kontum, tại Việt Nam, đã được đưa lên mạng YouTube; mà người viết bài này đã xem đi, xem lại để rồi cứ mỗi lần xem, là mỗi lần không thể nén lòng để không rơi nước mắt.Người viết đã từng nhắc mãi về câu thơ của cụ Nguyễn Du: “Đoạn trường ai có qua cầu mới hay!”. Và đó, chỉ có chính những người đã từng phải “qua cầu”, thì mới biết đến những nỗi “Đoạn trường!”.
Đoạn trường ấy, dẫu rằng mỗi chiếc cầu oan nghiệt mà mỗi con người đã phải vì nhiều hoàn cảnh khác nhau, nên đã phải bước qua, thì chỉ có chính họ mới thấu hết được những nỗi đau đớn đến mức “đoạn trường”. Đặc biệt, là đối với những thân phận của những người phụ nữ đã và đang phải gánh chịu, mà một trong vô số những cảnh đời bi thương ấy, là chính người phụ nữ của một sắc tộc nào đó tại Kontum, Việt Nam, trong đoạn phim này.
Chúng ta, nhất là đối với những người phụ nữ Việt Nam; mặc dù đang sống đời tỵ nạn cộng sản tại hải ngoại, nhưng chúng ta đều được sống trong những hoàn cảnh đầy đủ về phương tiện trong sinh hoạt hàng ngày. Mỗi lần bị đau đầu chút xíu, là chúng ta đã phải lo lắng rồi; vậy thì chúng ta hãy tưởng tượng đến hoàn cảnh của người phụ nữ đã từng bị xích xiềng trong suốt hai năm liền, trên người không có lấy một tấc vải che thân, không được tắm, gội trong suốt trong hai năm liền, phải chống chọi với những cơn mưa gió, lạnh lẽo và bệnh tật giữa chốn núi rừng như chúng ta đã thấy. Như thế, mà cho đến khi được giải thoát thì người phụ nữ này vẫn còn sống và đi lại được, thì chúng ta phải giải thích như thế nào, nếu không có sự bảo vệ của Ông Trời ?
Người viết vẫn còn nhớ về những năm tháng cũ, vào thời gian mà đảng Cộng sản Hà Nội đã từng hô hào “đánh Mỹ-Ngụy”; thì chính đảng cộng sản đã từng lợi dụng những tấm lòng chân thật của đồng bào của các sắc tộc ở các miền Thượng-Trung Du với những lời tuyên truyền nghe rất “tình người, gần gũi, thân thương” như những bài hát ca ngợi về những Buôn, Bản, Sóc. Mục đích là để cho họ phải lên nương, phát rẫy, làm ra hoa lợi, để “nuôi bộ đội cụ Hồ”; đồng thời cũng phải lao thân vào chỗ chết, như một Nông Văn Dèn (Dền) người sắc tộc Tày đã vào đảng cộng sản, đã cầm súng và đã chết khi chỉ mới tròn có 14 tuổi!
Thế nhưng, sau ngày 30/4/1975, thì những người dân của các sắc tộc này họ có “được sống tự do, cơm áo lành no…” như những lời ngụy ca trong một bài hát “Tiếng chày trên sóc Bom Bo” hay không ? Vì thế, để cho mọi người được biết một cách rõ ràng, nên người viết xin trích lại những lời ngụy ca mà một thời đảng cộng sản Hà Nội đã dùng để lừa gạt những đồng bào của các sắc tộc, trong đó, có cả sắc tộc tại Kontum như sau đây:
“Đuốc lồ ô bập bùng lên ánh lửa, sóc Bom Bo rộn rã tiếng chày khua, bồng con ra võng để đong đưa, giã gạo ban đêm vì ngày bận làm mùa…
Cách mạng cần gạo nhiều để đánh Mỹ, sóc Bom Bo sẵn có cối chày đây, người Bom Bo sẵn có đôi bàn tay, với tình yêu nước và thù giặc ngày ngày.
Ê.. còn nhớ ngày xưa người dân Bom Bo cái bụng không no khố chăn chẳng lành.
Ê.. được sống tự do, cơm áo lành no, dân làng Bom Bo nhớ ơn giải phóng..
Nhớ nhớ ơn người chiến sĩ, ngày đêm không nghỉ, tìm diệt giặc Mỹ giải phóng cho dân mình…”.
Nhớ nhớ ơn người chiến sĩ, ngày đêm không nghỉ, tìm diệt giặc Mỹ giải phóng cho dân mình…”.
Nhưng những sự thật quá phũ phàng này, đã không còn che giấu được nữa, những đồng bào của các sắc tộc đã bị đảng cộng sản Hà Nội, lợi dụng, lừa gạt, rồi bỏ rơi một cách hết sức tàn nhẫn; nhưng khi các vị Linh mục và các giáo dân thuộc giáo phận Kontum, muốn tìm cách để giúp đỡ đồng bào, thì bọn côn đồ lại đón đường để ra tay đánh đập Cha Louis Nguyễn Quang Hoa đến trọng thương, để ngăn chận không cho các giáo sĩ và giáo dân giáo phận Kontum đi đến các vùng quê nghèo để giúp đỡ những đồng bào khốn khổ. Khốn khổ đến mức độ đứa con trai nhỏ của người phụ nữ vừa được cứu, chỉ có độc nhất một chiếc áo thun rách nát, chứ không có quần để mặc suốt trong hai năm dài đối với một đứa bé chỉ mới lên năm tuổi; cũng như hoàn cảnh của họ như mọi người đã biết khi xem hết cả đoạn phim. Một đoạn phim đã khiến cho bản thân người viết đã úp mặt nhiều lần xuống chiếc bàn phím, và những dòng nước mắt đã cứ trào tuôn trên chiếc bàn phím này; vì thế, những dòng chữ cứ nhảy múa tứ tung, nên khó khăn lắm mới viết cho trọn một bài, để xem như một lời chia xẻ với tất cả đồng bào ruột thịt của mình đã và đang khốn khổ tại quê nhà. Và, ôi ! những lời hát của ai kia, đã cất cao, thánh thót theo từng cung bậc của từng nốt nhạc yêu thương trong đoạn phim đã đưa những con người có lòng với đồng bào, với Quê Hương đến gần lại với nhau hơn, để rồi sẽ cùng nhau dấn thân trên suốt con đường đấu tranh, mà dẫu cho có muôn vạn lần gian nguy, gai chông, bất trắc, nhưng vẫn quyết liệt vì một nước Việt Nam Tự Do Dân Chủ thực sự; cho mọi người dân Việt sẽ đều được hưởng trọn tất cả những thứ quyền căn bản, mà Ông Trời đã ban cho nhân loại từ thời Sáng Thế:
“Hôm nay là ngày Thiên Chúa dựng nên chúng con vui mừng sung sướng triền miên. Hôm nay ánh sáng bình mình chiếu rọi trên đầu những kẻ lòng thành.
Hôm nay đáng ghi muôn đời, hôm nay Chúa thương dân Người, hôm nay Chúa đem dân Người lên núi Sion.
Hôm nay nai vàng uống suối mật ong. Bến bờ hy vọng lúa vàng đâm bông. Hôm nay nho chín đồi cao, gió Nam trở về với đàn bồ câu.
Hôm nay bụi hồng bên suối trổ bông, khóm huệ trắng ngần xanh tốt lừng hương. Hương Nam thơm ngát đồi Li, Manna thấm nhuần sức mạnh Giavê”.
Hôm nay đáng ghi muôn đời, hôm nay Chúa thương dân Người, hôm nay Chúa đem dân Người lên núi Sion.
Hôm nay nai vàng uống suối mật ong. Bến bờ hy vọng lúa vàng đâm bông. Hôm nay nho chín đồi cao, gió Nam trở về với đàn bồ câu.
Hôm nay bụi hồng bên suối trổ bông, khóm huệ trắng ngần xanh tốt lừng hương. Hương Nam thơm ngát đồi Li, Manna thấm nhuần sức mạnh Giavê”.
Xin hãy cùng nhau cất cao “những lời ca”… xin hãy cùng nhau tìm ra những phương pháp thật hữu hiệu hơn, để mong xóa tan đi những nỗi đau thương, những niềm thống khổ của đồng bào ruột thịt của chúng ta đang phải gánh chịu từng ngày tại cố hương yêu dấu.
Pháp quốc, 10/3/2012
Hàn Giang Trần Lệ Tuyền
This entry was posted in Hàn Giang Trần Lệ Tuyền. Bookmark the permalink.
Đơn giản là gì bọn csvn như khách (hay Charlie Nguyễn) ở dưới vì bất lực chẳng còn lý do chính đáng hoặc lý tưởng gì nữa để bảo vệ cho thằng Hồ Chí Minh hoặc đảng csvn.
Vì chính bản thân hắn đang khinh bỉ bản thân mình là đảng viên csvn nên chẳng thể nào hùng biện tiếp tục đưa ra lý do thuyết phục thiên hạ tin vào thằng HCM hay đảng csvn. Mặc khác, vì những thằng cs nầy không thể nào có khả năng kiếm sống bằng nghề lương thiện, vì trí óc quá kém cõi, phần vì xuất thân 3 đời bần cố nông, nên phải muối mặt làm “tuyên vận” để hút máu nhân dân VN tiếp tục cho đảng để sinh sống nên phải tìm cách bôi bẩn CG.
Về lý thuyết thì lý thuyết CS đã bị khai tử. ĐCSVN không còn CHIÊU BÀI thì phải tưởng tượng nặn ra “TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ TẶC BỊP” (Chính HCM cũng xác nhận là hắn không có tư tưởng gì cả!), cho nên đảng viên CSVN hoàn toàn mất cả niềm tin, tinh thần giáo điều, mất cả chiêu bài lừa bịp. Giờ đây csvn chỉ còn lại lòng tham không đáy, bản chất tàn bạo, ngốc hèn, khúm núm trước ngoại bang nhỏ như Sing, Đài, Nam Hàn!
Vì thế để lấp liếm và che đậy sự phá sản, trí trá, gian hùng hèn hạ của đảng csvn, csvn phải tìm mọi cách phá vỡ niềm tin của các thành phần khác (nhất là tín đồ THIÊN CHÚA) để che đậy sự phá sản phá niềm tin, mất chính nghĩa, mất lý tưởng của đảng csvn.
Vì thế csvn chỉa mũi dùi vào THIÊN CHÚA GIÁO để mọi người quên đi, không nhìn thấy sự tồi bại ngu hèn của đảng CSVN. Vì chính csvn là đại thủ phạm tàn phá đất nước Việt Nam, bốc lột nhân dân, diệt chũng, cõng rắn cắn gà nhà, rước voi Trung Cộng về dầy mả tổ, làm Lê Chiêu Thống thời đại.
Bọn csvn phải đánh lạc hướng mọi thành phần dân tộc để nhân dân VN nhìn thấy DIỆN mà quên đi ĐIỂM là chính ĐCSVN là THỦ PHẠM CỦA MỌI THỦ PHẠM!
Bọn csvn tung hỏa mù, để tẩu thoát, để giấu tông tích, xóa đi tội lỗi, chứng tích tội phạm để người VN bị lãng quên chúng chính csvn là ĐẠI THỦ PHẠM tàn phá diệt chũng Việt Nam!
Và mục đích phụ cũng là làm chia rẽ, suy yếu tất cả mọi đoàn thể, tổ chức để chúng tiếp tục thống trị đè đầu cưỡi cổ dân, bán nước buôn dân mọi thành phần DÂN TỘC, không theo MA ĐẠO CS!
Cho nên chúng ta phải luôn nhớ: KẼ THÙ CHÍNH CỦA DÂN TỘC VN chính là ĐCSVN (giáo điếm giao điểm đang chơi ĐÒN HOẢ MÙ, TÂM XÀ đang giấu DAO SAU LƯNG để TÀN SÁT tiếp tục thống trị tàn bạo nhân dân VN. Chúng chính là bọn ĐIỆP BÁO CS ẩn mình, giấu tông tích và CHƠI ĐÒN LÌ!…)
Phải VẠCH MẶT CHÍNH XÁC mục đích CHÍNH của bọn GĐ GIAO ĐIỂM, đạo quân tiền phương của ĐCSVN!///
(source:http://cusiphatgiao.wordpress.com/2009/12/15/ti%E1%BB%83u-s%E1%BB%AD-charlie-nguy%E1%BB%85n-bui-van-ch%E1%BA%A5n/)
CHARLIE NGUYỄN ĐÔMINIC BÙI VĂN CHẤN (1938 – 2005)
Diễn viên ‘Ugly Betty’ giải thích hành vi giết mẹ
Michael Brea – nam diễn viên 31 tuổi vừa bị bắt vì dùng kiếm đâm chết mẹ hôm 23/11 – cho biết, anh chỉ giết ‘con quỷ’ ẩn nấp bên trong mẹ mình và Chúa đã sai khiến anh làm việc đó.
> Diễn viên ‘Ugly Betty’ giết mẹ bằng kiếm samurai
Hai ngày sau khi xảy ra vụ sát hại đẫm máu, Michael Brea đã thú nhận lý do dùng kiếm giết mẹ đẻ.
“Chúa đã khiến tôi làm điều đó. Tôi không giết mẹ, tôi giết con quỷ đang lẩn trốn bên trong bà ấy”, nam diễn viên mang hai dòng máu Mỹ và Haiti có cuộc thẩm vấn kéo dài hàng giờ tại nhà tù ở bệnh viện tâm thần Bellevue, New York (Mỹ).
Michael Brea kể, đêm hôm ấy, anh nghe thấy những tiếng nói kỳ lạ, bao gồm cả tiếng của Chúa yêu cầu anh phải giết mẹ. “Mẹ tôi bắt đầu có giọng nói kỳ lạ, như của một con quỷ. Khi tôi hỏi ‘mẹ có tin vào Chúa không?’ thì bà ấy hét lên ‘Không, Michael, không’. Sau đó tôi đã dùng kiếm lao vào đâm chết ‘con quỷ’ đó. Tôi đã không muốn giết mẹ ngay lúc đó, tôi chỉ cho bà ấy thời gian để đối mặt với Chúa” – nam diễn viên giải thích về tội ác của mình.
Anh cho biết thêm, anh cảm nhận một nguồn năng lượng lớn chảy trong mình như của một siêu nhân: “Tôi thấy mình giống như Neo của phim Ma trận. Tôi nghe được những giọng nói kỳ lạ và có nguồn sinh lực rất mạnh mẽ. Tôi không hiểu tại sao nữa”.
Khi những người hàng xóm nghe thấy tiếng la hét và báo cảnh sát, Michael vẫn không ngừng dùng kiếm đâm mẹ mình, kể cả lúc cảnh sát đã ập vào bắt anh. Giải thích về hành động man rợ này, nam diễn viên nói: “Tôi biết những linh hồn luôn đi theo và bảo vệ tôi. Tôi chỉ đâm bà ấy, không ai có thể ngăn cản tôi, tôi đang làm theo ý nguyện của Chúa”.
Michael Brea bị cáo buộc sử dụng vũ khí và giết người cấp độ hai. Anh vẫn bị tạm giam và làm những cuộc kiểm tra về tâm lý tại bệnh viện tâm thần Bellevue. Sự việc tiếp tục được điều tra.
Clip Cảnh sát đưa tin Michael Brea giết mẹ bằng kiếm samurai
http://vnexpress.net/gl/van-hoa/guong-mat-nghe-sy/2010/11/3ba235a9/page_1.asp
CĂN NGUYÊN TỘI ÁC
(The Root of all Evil)
Những kẻ ném bom tự sát bị thuyết phục rằng hành động đó là vì Thượng Đế, và rồi chúng sẽ được dẫn đến chốn thiên đàng dành riêng cho những kẻ tử đạo. Đây không chỉ là vấn đề của riêng đạo Hồi.
Thế kỉ 21 là thế kỉ của lí trí, tuy nhiên lòng trung thành mù quáng, và hiếu chiến đang quay trở lại. Chủ nghĩa cực đoan cuồng tín đứng đằng sau những cuộc xung đột quyết liệt và bất tận của thế giới.
Loạt phim hai phần này sẽ không bài bác niềm tin của bất kỳ ai nhưng gióng lên tiếng chuông cảnh tỉnh khi Tôn giáo lại là một thế lực lớn đe dọa đến những giá trị văn minh của loài người.
Dẫn chương trình là Dawking, một nhà sinh học xuất sắc. Ông luôn cho rằng Niềm tin là quá trình không suy nghĩ và nghĩ rằng giữa khoa học và niềm tin tôn giáo có sự mâu thuẫn sâu sắc
Người dịch : Cao Thanh Thủy
Biên tập : Nguyễn Bình Châu và VCĐ
Download : Phần 1 | Phần 2 | Phần 3 | Phần 4
Mirror : Phần 1 | Phần 2 | Phần 3 | Phần 4
Người dịch : Đào Viết Bội Quỳnh
Biên tập : VCĐ
Download : Phần 1 | Phần 2 | Phần 3
Mirror : Phần 1 | Phần 2 | Phần 3
Tôi thấy rằng, chống “Công giáo” như những lý do mà Gs Trần Chung Ngọc đã bày tỏ trong bài của ông; (SH: xin bấm ở đây hoặc đọc bài dẫn số 1 ở trên) và cũng chính các nhân vật trí thức Công giáo như Gs Nguyễn Mạnh Quang, ông Charlie Nguyễn – Bùi Văn Chấn, Gs Nguyễn Văn Trung (“Tòa thánh có đánh rắm cũng khen thơm”); bằng một số các sự kiện như chính Lm Trần Tam Tỉnh đã nêu ra; xa hơn nữa là các vị Lm Phạm Ngộ Hiên, Nguyễn Hòa Đường,… (với tác phẩm đã trở nên như một bản án từ dân tộc VN tố cáo đến với Vatican = “Tây Dương Gia Tô Bí Lục”) v.v… là những điều hiển nhiên tất yếu đối với những người có lương tri biết nghĩ đến dân chúng đồng bào, đến tổ tiên dân tộc và quê hương xứ sớ.
Người ta chống “Công giáo”, không có nghĩa là chống lại niềm tin tâm linh vào mỗi cá nhân một khi họ đã rửa tội để trở thành “con Chúa”. Đấy là chưa nói đến ngày nay đã có hàng chục, hàng trăm nghìn người đã yêu cầu rút tên họ ra khỏi danh sách rửa tội!
(xemhttp://sachhiem.net/TONGIAO/tgT/TinVOA.php) Yêu cầu rút tên ra khỏi danh sách rửa tội như vậy, mặc nhiên người ta thấy đã là thái độ từ chối, thái độ chống lại đức tin mà họ đã từng đón nhận.
Ai cũng có thể hình dung ra được đối với những người yêu cầu rút tên ra khỏi danh sách rửa tội như thế thì không có nghĩa họ “vô đạo” hay họ là “CS vô thần”. Chống “Công giáo” thì đã có vô số Giám mục, Linh mục, Mục sư, những học giả, giáo sư Thần học, những con chiên trí thức ở các nước phương tây chứ không phải đợi tới khi có mấy ông trí thức người Việt như Gs Trần Chung Ngọc, Nguyễn Mạnh Quang, Charlie Nguyễn v.v… đặt chân ra hải ngoại mới có chuyện chống!
Ở Hoa Kỳ
Vào những thời điểm CS chưa xuất hiện,
chính một số các nhà lập quốc Hoa Kỳ cũng đã từng từ chối và chống “Công giáo”. Nguyên văn nội dung tài liệu như sau:
“Bài của: Stevenson Morris
Dịch thuật: Trương Quang Anh
Những giới chức có quyền lực thuộc Thiên Chúa giáo định viết lại lịch sử Hoa Kỳ trong một chiến dịnh áp đặt niềm tin tôn giáo cho những người Mỹ chỉ muốn yên thân, không quan tâm tới vấn đề này.
Theo họ và dựa vào sự sửa đổi của Orwells, những nhà lập quốc Hoa Kỳ là những người theo Thiên Chúa giáo thuần thành, đã lập nên quốc gia Hoa Kỳ, một quốc gia Thiên Chúa giáo.
Điều đó không đúng.
Những vị tổng thống Hoa Kỳ đầu tiên và những công dân yêu nước Hoa Kỳ thường là những người tin tưởng ở lý trí hoặc là những nhà tự do tôn giáo. Họ tin tưởng phần nào ở một đấng hóa công được nhân cách hóa nhưng hoàn toàn bác bỏ việc thần thánh hóa chúa Jesus và những mặc khải trong Kinh Thánh.
- Thomas Paine (1737 – 1809), tác giả những bài nghị luận chính trị ca ngợi nền dân chủ, đã ra những tuyên ngôn khuyến khích sự ngờ vực những giá trị tinh thần cũ của xứ sở. Ông viết: “Tôi hoàn toàn không tin tưởng ở những giáo điều của nhà thờ Do Thái giáo (Cựu Ước), nhà thờ Gia Tô La Mã, nhà thờ Hy Lạp (Chính Thống giáo), nhà thờ Thổ Nhĩ Kỳ (Hồi Giáo), nhà thờ Tin Lành hoặc bất cứ nhà thờ nào mà tôi biết”.
của Gilbert Stuart Williamstown
- George Washington (22.2.1732 – 14.12.1799. Hai nhiệm kỳ: 30.4.1789 – 1796), là vị tổng thống Hoa Kỳ đầu tiên. Ông ta đặc biệt không quan tâm đến những tín ngưỡng thần linh thuộc thế kỷ 18 được lập ra bởi các tôn giáo. Tuy ông thường nhắc tới một đấng hóa công như một siêu lực xa vời và trừu tượng, ông không bao giờ tuyên bố ông là một người Thiên Chúa giáo cả.
Trên giường bệnh trước khi qua đời, tổng thống Washington không hề đọc kinh và không gọi một linh mục hay một mục sư nào tới làm lễ cả.
Trong phần cuối của cuộc đời, ông viết: “20 mươi lần trong cuộc đời đọc sách và tìm hiểu của tôi, tôi đã phải dứt khoát tin rằng thế giới đã tốt đẹp hơn nhiều nếu không có tôn giáo Thiên Chúa giáo xía vào”.
- Thomas Jefferson (13.4.1743 – 4.7.1826. Hai nhiệm kỳ: 4.3.1801 – 4.3.1809), tổng thống thứ 3, tác giả Bản Tuyên Ngôn Độc Lập của Hoa Kỳ thì viết rằng: “Tôi tin tưởng rằng không có một người nào trong giới trẻ tại Hoa Kỳ lại không trở thành một người tự do tôn giáo trước khi lìa đời”. (Tự do tôn giáo không hề có khi Gia Tô La Mã cầm quyền ở Âu Châu suốt hơn 10 thế kỷ. Các sử gia gọi là thời kỳ đen tối (The Dark age). Người nào bị nghi ngờ không tin chúa jesus thì bị bắt giữ, tù đày, tra tấn hết sức dã man. Rất nhiều người bị thiêu sống do Chánh án Torquemeda thuộc Tòa án Dị giáo Tây Ban Nha ra lệnh).
- James Madison (16.3.1751 – 28. 6. 1836. Hai nhiệm kỳ: 4.3.1809 – 4.3.1817 – tqd), tổng thống thứ 4, và là cha đẻ Bản Hiến Pháp Hoa Kỳ thì viết rằng: “Những sự ràng buộc của tôn giáo (Thiên Chúa giáo) xiềng xích con người và làm yếu đuối tâm hồn họ khiến họ không tạo được những công nghiệp cao cả!”
Như trên, đó là đoạn tài liệu đã được nhiều người in ấn, đăng tải ở nhiều nơi. Nhưng đấy, tôi đang chọn trong sách “Đến Bờ Ảo Vọng” của tác giả Cửu Long Lê Trọng Văn in tại USA năm 1996, tr 239, 240. Tác giả Lê Trọng Văn viết nhắm vào việc phản bác giáo hoàng Gioan Phao Lồ II của Vatican về sách “Bước Qua Ngưỡng Cửa Hy Vọng”, hay là “Bước Vào Ngưỡng Cửa Hy Vọng” (Varcare La Soglia della Speranza) đã in thành bản Việt ngữ mà Trần Thái Đỉnh đã dịch năm 1994.
Ở Việt Nam,
từ thời vua Lê Chúa Trịnh, sang nhà Tây Sơn cho đến triều Nguyễn, nhất là các sĩ phu, giới trí thức trong những cuộc khởi nghĩa, những phong trào kháng chiến chống Pháp thì không giai đoạn nào là không có chống “Công giáo”.
Tại sao vậy? Kể ra thì biết làm sao cho cùng!
“Bảy núi tội lỗi” mà vị Giáo hoàng tiền nhiệm đã đại diện cho dân Chúa để xin lỗi với cả nhân loại là chuyện chung chung. Tại Việt Nam, trong khi mấy ông cố đạo ngoại bang vào “rao giảng tin mừng” lại lôi truyền thống phong tục thể hiện lòng hiếu thảo của dân Việt ra mà chửi rủa là ma là quỉ (SH: quyển Phép giảng 8 ngày của Alexandre De Rhodes là một thí dụ. Có thể xem bảng điện tử ở nhiều nguồn, nhưhttp://www.giaophanvinhlong.net/ chẳng hạn). Ra lệnh cho con chiên xem thường nhà vua, không được thi hành theo luật vua phép nước, chỉ có thờ trọng, tuân lệnh, làm theo “đức vâng lời” một ông vua duy nhất là Giáo hoàng đang ngồi tại giáo triều với tư cách như một quốc gia là Vatican. Xúi giục quân giặc động binh sang xâm lăng xứ Việt, rồi cả giáo sĩ lẫn con chiên thì làm nội ứng cho giặc, tiêu diệt hết mọi tiềm năng đề kháng ngoại xâm của vua quan, dân chúng xứ Việt. Vận động, xúi giục giáo dân quần chúng, rồi đứng ra thành lập một “Vương quốc Kitô giáo ly khai” (dưới triều Minh Mạng) trong lòng đất nước của người ta – VN. Cho đến âm mưu lật đổ vua Tự Đức thì bảo sao các triều đại VN đã kể trên họ không chống?
Vậy mà, luật vua phép nước của các triều đại Việt Nam đã trừng trị những kẻ phản quốc, gây rối loạn quốc gia, đe dọa đến sự an nguy của tổ quốc, tức là Việt gian nối dáo cho giặc thì Vatican lại tuyển danh sách, phong hô lên là “thánh”.
Lịch sử vong quốc vì biến họa Thiên Chúa giáo bắt đầu từ năm 1858, qua các cuộc khởi nghĩa của Đinh Công Tráng, Phan Đình Phùng v.v… đều bị những giáo sĩ và giáo dân miệt thị là “bọn” (thái độ miệt thị là “bọn” như vậy, sớm nhất là lúc Việt gian Nguyễn Thân và Ngô Đình Khả vâng lệnh giặc Pháp, tảo thanh tiêu diệt Phong trào Văn Thân của cụ Phan Đình Phùng và tướng Cao Thắng trong cuộc Khởi Nghĩa Hương Khê (1885 – 1896). Cho đến tận lúc sau này, những chiếc đầu của những nghĩa quân Việt Nam Quốc Dân Đảng của Nguyễn Thái Học (1930) bị giặc kê lên bệ máy chém là những quỉ sứ chứ không là những anh hùng nghĩa sĩ của đất nước Việt Nam?
“Nguyễn Tri Phương (Thống chế dưới triều Tự Đức) bị thương nặng (lúc bảo vệ thành Hà nội trong cuộc tấn công của giặc ngày 20.11.1873), bị bắt làm tù binh. Giám mục Puginier đến an ủi ông; người anh hùng Việt Nam còn đủ sức trả lời như sau: “Sao! chính ông, thủ lĩnh các giáo sĩ Pháp, đến đây để thưởng thức cái giờ hấp hối của tôi ư? Ông không muốn để cho tôi chết được yên ổn ư? Chắc ông đã được hoàn toàn thỏa mãn, vì nhờ ông, nhờ những lời chỉ bảo của ông, mà lũ cướp người Pháp ấy đã lấy trộm mất của chúng tôi xứ Nam kỳ, và sẽ còn lấy trộm cả xứ Bắc kỳ nữa. Nguyện vọng cao cả của tôi, sau bao nhiêu thảm họa, là được chết đi càng nhanh càng tốt!”
Sống, đã chiến đấu anh dũng trên khắp mọi chiến trường như một anh hùng; chết, vị Thống chế cũng muốn chết như anh hùng. Sau Puginier, Nguyễn Tri Phương trả lời cho Francis Garnier:
“Một chiến sĩ phải chết, và chết giữa chiến trận không phải là một cái chết nhục nhã”.
Vị Thống chế 74 tuổi đó từ chối những câu an ủi, cũng như những ân huệ của kẻ thù, những sự chăm sóc thuốc men của chúng; ông giật tung tất cả băng bó trên mình, rồi nhịn ăn mà chết” (Nguyễn Xuân Thọ).
Và, những Việt gian như thế này đây:
“1. Tổng Đốc Phương, tức Đỗ hữu Phương, sinh năm 1844 tại Saigon, nguyên chủng sinh tại Penang, thông thạo tiếng Pháp, được Pháp chọn tham gia phái đoàn của Pháp trong cuộc thương lượng với triều đình Huế năm 1868. Sau đó Phương tham gia các cuộc tảo thanh chống Nguyễn Trung Trực tại Rạch Giá. Năm 1872, Phương được Pháp thăng chức tổng đốc Saigon.
“2. Trần Bá Lộc, sinh năm 1834 trong một gia đình Công giáo tại Long xuyên. Lộc xin vào đoàn quân Công giáo do Charner tổ chức chuyên việc lùng quét các nhóm quân kháng chiến. Sau khi tham gia nhiều trận đánh tái chiếm Rạch Giá, Lộc được Pháp phong chức tổng đốc Rạch Giá.
Y là tên đại Việt gian được Pháp tín nhiệm trao nhiệm vụ triệt hạ phong trào kháng chiến từ Quảng Nam đến Phan Thiết.
Với nhiệm vụ này, Trần Bá Lộc đã giết hại khoảng 25 ngàn người Việt yêu nước.
“3. Trần Tử Ca, nguyên là một người bên lương, sinh trưởng tại Gò Vấp. Lúc đầu y theo kháng chiến, nhưng sau đó y theo đạo Công giáo, rời bỏ hàng ngũ kháng chiến theo giặc chống lại Tổ Quốc. Năm 1862, Ca được Pháp bổ làm tri huyện Hóc Môn. Năm 1865, y đi theo quân đội Pháp càn quét các tỉnh Miền Tây. Đêm 9-2-1885, Ca bị nghĩa quân giết chết.
“4. Huỳnh Công Tấn, là một người Công giáo trong hàng ngũ nghĩa quân của Trương Công Định từ 1861 (hay là gián điệp được cài vào nghĩa quân củaTrương Công Định? – tqd). Ngày 20-8-1864, Tấn phản bội, bất thần phục kích giết chết Trương Định tại Gò Công. Ngày 19-9-1868, Huỳnh Công Tấn cùng với 127 lính tập Công giáo vây bắt Nguyễn Trung Trực tại đảo Phú Quốc (và ông bị chúng mang về hành hình tại Rạch Giá – tqd). Như vậy, riêng một mình y đã sát hại được hai nhà cách mạng kháng chiến nổi tiếng tại Nam Kỳ. Y được Pháp trao tặng Bắc Đẩu Bội Tinh cho hai chiến công lớn này.(SH: xem Những phú hộ lừng danh Nam Kỳ )
(Charlie Nguyễn).
Thế đấy, cũng như bao nhiêu nét, bao nhiêu vấn đề, bao nhiêu sự kiện có liên quan đến đạo Thiên Chúa giáo, khi có người đề cập đến thì liền bị mắng càn không cần lý do, không cần biết đến phải trái để đi vu chụp cho người ta nào là “vô đạo”, “chống phá tôn giáo”, là “Việt cộng vô thần”, là “tiêu diệt tôn giáo”, là “ngăn cản sự hành đạo của dân chúng” v.v… (SH: xin bấm ở đây hoặc đọc bài dẫn số 2 ở trên)
Đọc mấy lối thóa mạ ẩu xự trên, làm tôi nhớ đến những lối lên án từ tòa thánh Vatican qua các vị Giáo hoàng trong khía cạnh muốn bóp nghẹt thông tin và quyền tự do ngôn luận:
“GIÁO CHỦ KHÔNG THÍCH TỰ DO BÁO CHÍ:
Đức giáo hoàng Gregoire XVI đã gọi tự do báo chí là thứ tự do tai hại nhất, đáng ghét nhất, kinh tởm nhất mà một số người dám đòi hỏi một cách ồn ào cuồng nhiệt và quảng bá khắp nơi…
Giáo hội đã lên án chủ nghĩa Tự Do qua 3 bức thông điệp:
- Miraniuos của Gregoire XVI năm 1832.
- Quanta Cura của Pie XI năm 1864.
- Pretatissimum của Léon XIII năm 1888.
(Tôn giáo và Dân Tộc của Lý Chánh Trung , trang 76 mà “Thiên Hồ! Đế Hồ! – Trời ơi! Chúa ơi!” (Phan Bội Châu) – của Lê Trọng Văn đã in ở trang 80).
*
Đây những kẻ không cha
Kia nhiều con mất mẹ
Cuộc đời thường khốn khổ
Ta nằm trong số đó
*
Chúng mình là cơn gió
Lấp ló trong thời của một vài người
Nhưng chẳng phải trò chơi
Trên ván cờ tơi bời dương thế
*
Có thể mình cách nhau một thế hệ
Nhưng có chung ước thệ
Đoàn kết để giúp đỡ nhau
San sẻ những nỗi sầu
*
Xoa dịu vết thương đau vì cuộc sống
Hãy cất lên tiếng thi ca vang vọng
Đánh động mọi thân phận
Bất hạnh trên thế giới này
*
Đây những kẻ không cha
Kia nhiều con mất mẹ
Cuộc đời như chó ghẻ
Nhiều người đã rẻ rúng khinh khi
*
Tâm chúng ta tất lỳ
Thanh chúng la lồng lộng
Vang vọng trong ngày tám tháng ba
Xin vinh danh các bà
*
TÂM THANH