31.3.12

Nhân quyền hay dân quyền?




Nguyễn Quốc Khải
Nhà nghiên cứu tại Washington D.C.
Cập nhật: 14:02 GMT - thứ năm, 29 tháng 3, 2012
Cuộc biểu tình vì nhân quyền Việt Nam trước
ngày phái đoàn vào Toà Bạch Ốc 7/2
Thỉnh nguyện thư của cộng đồng Mỹ gốc Việt về nhân quyền cho Việt Nam đệ nạp lên Tổng thống Barack Obama qua mạng của Tòa Nhà Trắng ngày 7/2 bắt đầu bằng câu "Chúng tôi thỉnh nguyện chính phủ Obama ngưng mở rộng thương mại với Việt Nam, hi sinh nhân quyền".


Đề nghị được nêu ra ở ba dòng cuối cùng:
"Chúng tôi thỉnh cầu tổng thống sử dụng Hiệp định Đối tác Kinh tế Chiến lược xuyên Thái Bình Dương (Trans-Pacific Strategic Economic Partnership Agreement - TPP) và Hệ thống Ưu đãi Thuế quan Phổ quát (Generalized System of Preferences - GSP) để buộc chính quyền cộng sản Việt Nam trả tự do lập tức và vô điều kiện cho những nhà hoạt động nhân quyền đang bị bắt giữ hoặc giam cầm trong các nhà tù tại Việt Nam. Bày tỏ cho thế giới biết rằng Hoa Kỳ đặt tự do trên hết."
Vậy Hiệp định Đối tác Kinh tế Chiến lược xuyên Thái Bình Dương và Hệ thống Ưu đãi Thuế quan Phổ quát là gì và chúng có thể được sử dụng để hỗ trợ cho cuộc tranh đấu nhân quyền ở Việt Nam hay không?
Hiệp định và Hệ thống thuế 
Hiệp Định TPP đặc biệt nhấn mạnh đến những lãnh vực sau đây: (a) bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ; (b) xuất xứ hàng hóa; (c) chính sách cạnh tranh; (d) bảo vệ quyền lao động; (e) hạn chế khu vực xí nghiệp quốc doanh; (f) bảo vệ môi sinh ; (g) bảo đảm an toàn vệ sinh thực phẩm ; (h) yểm trợ doanh thương vừa và nhỏ; (i) mở rộng tiếp cận thị trường; (j) bảo đảm công nghệ thông tin tự do.
Các điểm về bảo vệ quyền lao động, hạn chế khu vực xí nghiệp quốc doanh, mở rộng tiếp cận thị trường, và bảo đảm công nghệ thông tin tự do chắc chắn sẽ tạo cơ hội cho Việt Nam cải tổ kinh tế.
Riêng điều kiện về bảo vệ quyền lao động, Việt Nam sẽ phải cho công nhân thành lập công đoàn độc lập, có quyền đình công và quyền tổ chức và thương lượng tập thể. Quyền lao động là một phần của nhân quyền.
Nếu chính quyền cộng sản Việt Nam chấp thuận điều kiện này, công nhân Việt Nam và những người tranh đấu cho nhân quyền nói chung sẽ thắng một trận lớn.
Thực hiện năm 1976, Hệ Thống Ưu Đãi Thuế Quan Phổ Quát cho phép sản phẩm từ các quốc gia đang phát triển này được nhập cảng miễn thuế vào Hoa Kỳ. Tính đến đầu năm 2012, 129 nước đã gia nhập chương trình GSP và 4.800 loại hàng được xuất cảng sang Hoa Kỳ, chiếm 1/3 hàng nhập cảng vào Mỹ.
Những nước đang phát triển phải thỏa mãn các tiêu chuẩn sau để được nhận GPS:
  • Mức độ phát triển kinh tế, kể cả tổng sản phẩm quốc gia trung bình đầu người (per capita GNP), mức sống của người dân và những yếu tố kinh tế khác mà Hoa Kỳ xét thấy thích hợp.
  • Cho sản phẩm của Hoa Kỳ tiếp cận thị trường một cách quân bình và hợp lý và sản phẩm thô như khoáng sản, cao su, bông gòn, trà, cà phê…
  • Bảo vệ hữu hiệu quyền sở hữu trí tuệ.
  • Làm giảm bớt những hàng rào ngăn cấm tự do thương mại, đặc biệt về khu vực dịch vụ.
  • Không phải là nước cộng sản, ngoại trừ nước này có liên hệ thương mại bình thường với Hoa Kỳ; là hội viên của Tổ Chức Mậu dịch Thế giới (WTO); hội viên của Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế (IMF); và không bị chỉ đạo bởi cộng sản quốc tế.
Trong số đó, Việt Nam có chừng 1.000 loại sản phẩm hội đủ tiêu chuẩn để được nhập cảng vào Mỹ như đồ sứ, sản phẩm điện tử (không nhạy cảm), đồ gỗ, kim loại quý, nữ trang giả, rổ rá, bao tải, túi, xắc tay..
Để nhận GSP, quốc gia xuất khẩu phải bảo vệ đầy đủ quyền lao động được quốc tế công nhận trên năm lãnh vực: quyền lập hội, quyền tổ chức và thương lượng tập thể, cấm cưỡng bách lao động, ấn định tuổi tối thiểu của trẻ em có thể đi làm và cấm những hình thức tồi tệ nhất của lao động trẻ em, và điều kiện làm việc có thể chấp nhận được đối với mức lương tối thiểu, số giờ làm việc, và an toàn nghề nghiệp và sức khoẻ.
Yêu cầu liên tục
Chính phủ Việt Nam đã chính thức gửi văn thư cho chính phủ Hoa Kỳ để xin được hưởng quy chế GSP vào tháng 5-2008. Trong dịp thăm viếng Hoa Kỳ hồi tháng 6-2008, thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã đề cập vấn đề này trong thông cáo chung của hai nước Việt - Mỹ.
Vào thời điểm đó, Ủy Ban Hoa Kỳ Bảo Vệ Người Lao Động Việt Nam tức Committee to ProtectVietnameseWorkers, (CPVW-USA), một thành viên của Liên Minh Chống Nô Lệ Mới ở Á châu, Coalition to Abolish Modern-Day Slavery in Asia (CAMSA), đã trình bày với Văn Phòng Đại Diện Thương Mại Hoa Kỳ rằng, trên nguyên tắc cơ quan này ủng hộ việc Việc Nam xin gia nhập GSP vì chương trình này sẽ giúp nông dân và công nhân Việt Nam bán sản phẩm sang Hoa Kỳ dễ dàng hơn.
Tuy nhiên CPVW-USA xác định rằng Việt Nam chưa đủ điều kiện để gia nhập GSP. Mặc dù CSVN được rất nhiều công ty lớn của Mỹ ủng hộ, cho tới ngày hôm nay, Hoa Kỳ chưa chấp nhận cho Việt Nam được hưởng quy chế GSP
Vào đầu năm nay, trong chuyến viếng thăm Việt Nam của một phái đoàn gồm bốn thượng nghị sĩ Hoa Kỳ, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng một lần nữa đã yêu cầu Hoa Kỳ cho Việt Nam hưởng quy chế GSP.
Như nêu trên, Hà Nội hội đủ mọi điều kiện ngoại trừ quyền lao động nhưng bị coi là vi phạm là quyền lập hội, quyền tụ tập, quyền tổ chức và thương lượng tập thể, lao động trẻ em và điều kiện làm việc và lương bổng.
Quyền của công nhân
"Việt Nam bị cho là vi phạm quyền lập hội, quyền tụ tập, quyền tổ chức và thương lượng tập thể, lao động trẻ em"
Nguyễn Quốc Khải
Công dân không có quyền tụ tập tại Việt Nam. Nếu tụ tập từ năm người trở lên đều phải xin phép chính quyền địa phương (Điều 5.2 của Nghị Định 38/2005/NĐ-CP về trật tự công cộng, ký ngày 18-3-2005).
Thông tư của Bộ Công An số 09/2005/TT-BCA ngày 5-9-2005 giải thích rõ hơn về hoạt động tập trung từ năm người ở nơi công cộng bị chi phối bởi Nghị Định 38/2005/NĐ-CP.
Người lao động Việt Nam không có quyển tổ chức và thương lượng tập thể và đình công bột phát không do cá nhân, nhóm, hay chính phủ chính thức tổ chức nên sức mạnh thương lượng tập thể rất yếu.
Theo luật, bất cứ một cuộc đình công nào đều phải có sự chấp thuận của Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam và chính quyền địa phương theo một thủ tục kéo dài và rườm rà.
Thực tế cho thấy Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam chưa bao giờ khởi xướng, tổ chức, hoặc cho phép bất cứ một cuộc đình công nào. Do đó tất cả các cuộc đình công tại Việt Nam được xem là bất hợp pháp.
Gần đây, chính quyền ban hành thêm một nghị định có tính cách chống người lao động bằng cách buộc người lao động tham gia đình công bất hợp pháp phải bồi thường thiệt hại cho chủ nhân.
Luật Việt Nam đòi hỏi rằng tuổi tối thiểu để làm việc là 18. Trẻ em trong lứa tuổi 15-18 có thể được tuyển vào làm việc, nếu chủ công ty có giấy phép của cha mẹ và Bộ Lao Động, Thương Binh và Xã Hội nhưng bộ này không có phương tiện để có thể cưỡng bách việc thi hành luật. Do đó tình trạng lao động trẻ em vẫn tiếp diễn ở Việt Nam.
Muốn nhận quy chế GSP, Việt Nam
phải cho công nhân hưởng các quyền
bình thường như lập nghiệp đoàn
Theo Văn phòng Dân Chủ, Nhân Quyền, và Lao Động tại Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ, trẻ em Việt Nam bị buôn bán ở trong nước cũng như ở nước ngoài, đáng chú ý nhất là Campuchia, để khai thác tình dục. Việc buôn trẻ em ở trong nước bao gồm cả những trường hợp trẻ em bị bắt làm nghề ăn mày và bán hoa, đặc biệt ở Sài Gòn và Hà Nội. Một số trẻ em khác lại bị buôn ngược lại từ Campuchia và đưa vào Sài Gòn.
Luật Lao Động Việt Nam cam kết bảo vệ người lao động như bất cứ một quốc gia phát triển nào. Tuy nhiên, trên thực tế, phần đông công nhân Việt Nam phải chịu thiệt thòi một cách đáng kể vì tiền lương thấp, ngày làm việc dài, không trả lương giờ phụ trội, điều kiện làm việc thiếu an toàn về sức khỏe, không bảo hiểm và không tiền hưu trí.
Thuế – Thương mại - Nhân quyền
Về quyền lao động, Hiệp Định Đối Tác Kinh Tế Chiến Lược Xuyên Thái Bình Dương và Hệ Thống Ưu Đãi Thuế Quan Phổ Quát không khác nhau một nhưng có sự khác biệt quan trọng giữa chúng
Hệ thống Ưu đãi Thuế quan phổ quát (GSP) - là một công cụ hoàn toàn nằm trong tay Hoa Kỳ và Việt Nam ở vào vị trí xin - cho.
Còn Hiệp định Đối tác Kinh tế xuyên Thái Bình Dương là một tổ chức đa quốc gia và Việt Nam và Hoa Kỳ còn ở trong giai đoạn thương thuyết để Việt Nam gia nhập.
Tuy là một nước lớn và đóng một vai trò quan trọng trong Hiệp định, Hoa Kỳ không phải là quốc gia chủ nhân của nó.
Giới chức Hoa Kỳ nhiều lần tuyên bố rằng vấn đề nhân quyền ở Việt Nam đã cản trở hai quốc gia tiến xa hơn nữa trong quan hệ ngoại giao và hợp tác chiến lược.
Trong dịp viếng thăm Việt Nam hồi tháng 10-2010, ngoại trưởng Hillary Clinton đã bày tỏ mối lo ngại về tình trạng nhân quyền tại Việt Nam.
Bà tuyên bố với báo chí tại Hà Nội rằng "Với một dân tộc đặc biệt và năng động, Việt Nam đang trở thành một quốc gia vĩ đại với một tiềm năng vô giới hạn. Và đó cũng nằm trong những lý do khiến chúng tôi phải bày tỏ sự quan tâm về việc bắt giữ và kết án những người bất đồng chính kiến ôn hòa, tấn công những nhóm tôn giáo, và hạn chế tự do Internet."
Chuyến thăm Việt Nam của bốn thượng
nghị sỹ Hoa Kỳ trong tháng 1 có tính
bước ngoặt
Vào đầu năm nay, trong chuyến viếng thăm Việt Nam, thượng nghị sĩ John McCain, đáp lại lời yêu cầu của Việt Nam muốn mua võ khí của Hoa Kỳ, đã tuyên bố rằng "có một số hệ thống võ khí mà Việt Nam muốn mua của chúng tôi và chúng tôi muốn chuyển giao những võ khí này cho họ, nhưng điều này sẽ không xảy ra ngoại trừ Việt Nam cải thiện thành tích nhân quyền của họ".
Việt Nam rất muốn gia nhập Hiệp định Đối tác Kinh tế xuyên Thái Bình Dương vì các nước trong khối sẽ là một thị trường lớn cho hàng hóa của Việt Nam. Một khi đã thỏa mãn những tiêu chuẩn cao để gia nhập, Việt Nam sẽ thu hút được đầu tư của khối và những quốc gia khác.
Ngoài ra, Hiệp định Đối tác Kinh tế xuyên Thái Bình Dương sẽ giúp Việt Nam độc lập hơn với Trung Quốc về phương diện kinh tế vì Trung Quốc sẽ khó thỏa mãn những điều kiện để vào tổ chức này.
Nếu cần Hoa Kỳ có thể đòi hỏi thêm điều kiện về nhân quyền để gạt hẳn Trung Quốc ra ngoài.
Mặt khác, Quy chế Ưu đãi Thuế phổ quát hoàn toàn có lợi cho Việt Nam vì nếu được hưởng Việt Nam có thể gia tăng số lượng và trị giá hàng xuất khẩu qua thị trường Hoa Kỳ mà không phải trả thuế nhập cảng.
Nhưng TPP và GSP cũng sẽ là hai cơ hội lớn để Hoa Kỳ áp lực Việt Nam cải thiện nhân quyền.
Việt Nam thường làm ngơ hoặc bác bỏ những lời chỉ trích vi phạm nhân quyền của các cơ quan nhân quyền quốc tế và những quốc gia văn minh trên thế giới. Tuy nhiên đối với hai TPP và GSP, với chủ trương rõ ràng của Hoa Kỳ khiến chính quyền cộng sản Việt Nam khó có thể làm ngơ được.
Trong hơn 10 năm vừa qua, cứ hai năm toàn bộ Hạ Viện được bầu lại, Hoa Kỳ lại có một quốc hội mới, cộng đồng người Mỹ gốc Việt lại vận động để Dự Luật Nhân Quyền Cho Việt Nam được thông qua tổ chức lập pháp này, nhưng chưa bao giờ thành công.
Chính sách của Hoa Kỳ ở Đông Nam Á không cho phép Hoa Kỳ mạnh tay với Việt Nam về nhân quyền. Do đó, ta không thấy một dấu hiệu nào khiến cho dự luật này có nhiều may mắn hơn đối với Quốc Hội thứ 112 hiện nay.
Đâu là mục tiêu khả thi của chúng ta? Về phương diện chiến thuật, dự luật nhân quyền chỉ là một cái bóng. Nhưng Hiệp định Đối tác Kinh tế Chiến lược xuyên Thái Bình Dương và Hệ thống Ưu đãi Thuế quan Phổ quát mới thực sự là mục tiêu có thực.
Bài viết thể hiện quan điểm và cách hành văn riêng của tác giả Nguyễn Quốc Khải ở Washington D.C. Hoa Kỳ. Bản dài hơn 'Vận động Nhân quyền, đâu là mục tiêu khả thi?' đã được đăng tải trên một số trang mạng tiếng Việt ở nước ngoài.

Góp Ý

Không có nhận xét nào: