Thuyết Giảng Giải Nobel của Aung San Suu Kyi tại Oslo, Thụy Điển — Nobel Lecture by Aung San Suu Kyi, Oslo, Norway
Aung San Suu Kyi
June 23, 2012One Bình Luận
June 23, 2012One Bình Luận
DIỄN ĐÀN VIỆT THỨC: Sau 21 năm giam cầm trong nước dưới chế độ độc tài quân phiệt, thứ Bẩy 16 tháng 6 vừa qua, Aung San Suu Kyi, nhà tranh đấu cho Dân Chủ Tự Do Miễn Điện, mới có dịp đọc diễn từ nhận giải Nobel Hoà Bình tại Oslo mà Tổ chức này đã chính thức trao tặng Bà năm 2001. Lý do mà Bà Aung San Suu Kyi không sang Na Uy [Norway] nhận lãnh giải Nobel Hoa Bình trong năm 2001 là vì e ngại không được phép trở lại nước để tiếp tục tranh đấu cho Nhân quyền và Dân Chủ Tự Do. Bà xác nhận, gần đây chính thể Miễn Điện có phần cải tiến, những lưu ý con đường hoàn thiện hãy còn dài.
Thuyết Trình Giải Nobel của Aung San Suu Kyi tại Oslo, Thụy Điển, ngày 16 tháng 6 năm 2012
Original video broadcast/Click on link/Mời bấm>http://www.nobelprize.org/
Rất nhiều về năm trước, đôi khi có vẻ như là nhiều kiếp trước, tại Đại Học Oxford tôi đã có nghe trên đài chương trình “Các Dĩa Điện Tử Trên Hoang Đảo” với Alexander, cậu con trai nhỏ của tôi. Đây là một chương trình được nhiều người biết (và vẫn còn, tôi tin như vậy) theo đó những nhân vật nổi tiếng về mọi lãnh vực trong đời sống được mời đến nói chuyện về tám đĩa điện tử – ngoại trừ Kinh Thánh và toàn bộ các tác phẩm của Shakespeare – và một mặt hàng xa xỉ mà họ muốn có nếu bị đắm tàu và vĩnh viễn kẹt lại trên một hoang đảo. Sau khi chương trình – mà cả hai chúng tôi đều rất thích – chấm dứt, Alexander hỏi tôi rằng tôi có nghĩ là tôi sẽ có cơ hội được mời lên nói chuyện trên chương trình “Các Đĩa Điện Tử Trên Hoang Đảo.” hay không. “Tại sao lại không nhỉ?” tôi đã trả lời phớt qua. Vì con tôi biết đại khái chỉ có những người nổi tiếng mới được mời lên nói chuyện, em đã hỏi tiếp, với ý muốn thật sự biết câu trả lời, là theo tôi thì tôi sẽ được mời vì lý do nào? Tôi suy nghĩ một lát rồi trả lời như sau: “Có lẽ vì mẹ đã đoạt giải Nobel về Văn Chương” và cả hai chúng tôi đều cười. Viễn tượng này xem có vẻ thú vị nhưng khó xảy ra.
(Bây giờ thì tôi không còn nhớ tại sao tôi đã trả lời như thế, có lẽ vì lúc đó tôi vừa đọc xong một cuốn sách của một người đã đoạt giải Nobel hay có lẽ người nổi tiếng được mời nói chuyện trong chương trình Hoang Đảo vào ngày đó là một nhà văn có tiếng tăm.)
Vào năm 1989, khi Michael Aris, người chồng nay đã quá cố của tôi, đến thăm trong kỳ quản chế lần thứ nhất của tôi, anh cho tôi hay là một người bạn, John Finnis, đã đề cử tôi ra tranh giải Nobel Hòa Bình. Lần này tôi cũng đã cười. Trong một khoãng khắc Michael đã tỏ vẻ kinh ngạc, nhưng rồi anh hiểu ra tại sao tôi cười. Giải Nobel Hòa Bình? Một viển tượng thú vị, nhưng thật sự khó xảy ra! Do đó, tôi đã có cảm tưởng gì khi tôi thực sự được trao giải Nobel Hòa Bình? Tôi đã được hỏi câu hỏi này nhiều lần và chắc chắn đây là cơ hội thích hợp nhất để xem xét ý nghĩa của giải Nobel đối với tôi, và ý nghĩa của hoà bình đối với tôi.
Như đã lặp đi lặp trong nhiều lần phỏng vấn, tôi nghe tin tôi được trao giải Nobel Hoà Bình trên đài vào một buổi tối. Khi nhận được tin này tôi thực sự không hoàn toàn ngạc nhiên. Trong tuần một số đài đã phát sóng bản tin tôi là một trong những người đứng hàng đầu cho giải này. Khi viết bản nháp bài thuyết giảng này, tôi hết sức cố gắng nhớ lại phản ứng đầu tiên của tôi ngay sau khi giải thưởng được công bố. Tôi không thể nào nhớ chắc được, tôi nghĩ hình như thế này: “Ồ, thế thì họ đã quyết định cho tôi giải này.” Giải thưởng này đã có vẻ như là không hoàn toàn thật bởi vì vào lúc đó, chính bản thân tôi đã có cảm giác là tôi cũng không nhất thiết là thật.
Vào những ngày bị quản chế tại nhà tại nhà tôi thường cảm thấy tôi không còn là một phần của thế giới thật nửa. Có một cái nhà và đó là thế giới của tôi, có một thế giới của những người khác cũng không có tự do nhưng họ sống trong nhà tù với nhau như một cộng đồng, và có một thế giới của những người tự do; và mổi thế giới đó là một hành tinh đang theo đuổi một đường hướng riêng trong một vũ trụ vô tư. Điều mà Giải Nobel đã làm là thêm nột lần nửa kéo tôi về lại với thế giới của những con người khác ở ngoài khu vực bị cô lập trong đó tôi đang sống, và khôi phục lại trong tôi cảm giác thực tại có thật. Đương nhiên là việc này đã không xảy ra ngay lập tức, nhưng khi những ngày những tháng trôi qua và khi tin tức về các phản ứng đối với giải thưởng được truyền đến qua làn sóng điện, tôi đã bắt đầu hiểu được ý nghĩa của giải Nobel Hòa Bình. Giải thuởng này đã đưa tôi về với thực tại; đã kéo tôi trở lại cộng đồng lớn rộng của loài người. Và điều quan trọng hơn là, Giải Nobel Hòa Bình đã làm cho thế giới chú ý đến cuộc tranh đấu cho dân chủ và nhân quyền tại Miến Điện. Chúng tôi sẽ không còn bị quên lãng.
Bị bỏ quên. Người Pháp nói chia tay là chết đi một chút. Bị bỏ quên cũng là chết đi một chút. Là mất đi một vài móc nối đang neo chúng ta vào phần còn lại của loài người. Trong lần thăm viếng Thái Lan gần đây, khi tôi gặp những người lao động di dân và những người tị nạn Miến Điện, nhiều người đã gào lên: “Đừng quên chúng tôi!” Điều họ muốn nói là: “Đừng quên cảnh ngộ khó khăn của chúng tôi, đừng quên làm những gì có thể làm được để giúp chúng tôi, đừng quên chúng tôi cũng thuộc về thế giới của bà.” Khi Ủy Ban Nobel trao giải Nobel Hòa Bình cho tôi, họ đã công nhận những người bị áp bức và cô lập ở Miến Điện cũng là những thành viên của thế giới, họ đã công nhận tính đồng nhất của nhân loại. Do đó, riêng cho tôi, việc nhận giải Nobel Hòa Bình có nghĩa là các quan tâm của tôi về dân chủ và nhân quyền sẽ phải được nới rộng để bao trùm các nước ở ngoài biên giới nước tôi. Giải Nobel Hòa Bình đã mở một cánh cửa trong tim tôi.
Khái niệm hòa bình của người Miến Điện có thể giải thích như là hạnh phúc phát sinh khi các yếu tố kình chống lại hài hòa và lành mạnh chấm dứt. Cụm từ “Nyein-Chan” dịch theo nghĩa đen là sự tươi mát tốt lành khi một ngọn lửa được dập tắt. Những ngọn lửa khổ đau và xung đột vẫn đang cháy mạnh trên thế giới. Tại nước tôi, các xung đột vẫn chưa chấm dứt ở phía Bắc; ở phía Tây, bạo loạn tại các cộng đồng bắt ngưồn từ các vụ đốt nhà và giết người đã xảy ra chỉ vài ngày trước khi tôi bắt đầu cuộc hành trình đưa tôi đến nơi này. Có rất nhiều thông tin về các hành vi dã man tại những nơi xa xôi khác trên địa cầu. Các báo cáo về nạn đói, bệnh tật, di dời, thất nghiệp, nghèo khổ, bất công, kỳ thị, khinh khi dự tưởng, cuồng tin, là chuyện hàng ngày của chúng ta. Ở đâu cũng có những thế lực tiêu cực đang ra sức đục phá các nền tảng của hòa bình. Ở đâu cũng có thể thấy người ta phí phạm một cách vô tư vật liệu và tài nguyên nhân sự cần thiết để bảo tồn hài hòa và hạnh phúc trong thế giới của chúng ta.
Đại Thế Chiến lần thứ nhất là một biểu tượng kinh khiếp cho sự lãng phí tuổi trẻ và tiềm năng, một sự phí phạm ác độc các sức mạnh tích cực trên hành tinh chúng ta. Với tôi, thi ca thời đó có một ý nghĩa đặc biệt vì lần đầu tiên khi tôi đọc các vần thơ đó, tôi cùng một tuổi với những chàng trai trẻ phải trực diện với viễn ảnh họ có thể sẽ bị tiêu vong trước khi họ chỉ vừa mới chớm nở. Một thanh niên Mỹ chiến đấu cùng lính Lê Dương Pháp đã viết trước khi chết tại chiến trường là anh sẽ chết “tại một hàng rào chận nơi mà người ta đang tranh dành đánh nhau;” “trên một con dốc đầy sẹo của một ngọn đồi đã bị đánh dập;” “vào nửa đêm trong một thành phố đang hực cháy.” Tuổi trẻ và tình yêu và cuộc đời vĩnh viễn gục chết trong những nỗ lực vô nghĩa nhằm chiếm lấy những nơi chốn không tên mà không một ai sẽ nhớ đến. Để được cái gì? Gần một thế kỷ đã trôi qua, nhưng chúng ta vẫn chưa tìm ra được một câu trả lời cho thỏa đáng.
Có đúng không khi nói chúng ta vẫn tiếp tục là những kẽ có tội, dù cho ở một mức độ bạo hành thấp hơn, vì liều lỉnh vô cớ, vì không biết lo xa cho tuơng lai của chúng ta và của nhân loại? Chiến tranh không phải là đấu trường độc nhất tại đó hòa bình bị hành hạ cho đến chết. Ở nơi nào mà khổ đau bị bỏ quên, sẽ có hạt giống tranh chấp, bởi vì khổ đau làm suy giảm các giá trị và đẻ ra đắng cay và khởi động căm thù.
Một khía cạnh tích cực của lối sống cô lập là tôi đã có khá nhiều thời gian để suy đi nghĩ lại ý nghĩa các từ và các lời giáo huấn tôi đã biết và đã chấp nhận suốt đời tôi. Là một Phật Tử, từ lúc còn là một đứa bé nhỏ, tôi đã nghe qua về Dukha, thường được dịch là khổ đế. Hầu như ngày nào tôi cũng những người luống tuổi quanh tôi, và đôi lúc từ những người không mấy luống tuổi, thầm thì “khổ đế, khổ đế” khi họ đau khổ vì thân xác ê ẩm hay đau nhức, hay khi họ gặp phải những diếu bất hạnh nhỏ nhặt, bực mình. Tuy thế, chỉ trong những năm bị quản chế tại nhà tôi mới quay trở lại và tìm hiểu bản chất của sáu điều khổ lớn. Đó là: sinh, lảo, bệnh, tử, phải xa lìa người mình yêu thương, và bị buộc phải sống với người mình không thương yêu. Tôi xem xét sáu điều khổ lớn đó, không phải về khía cạnh tôn giáo mà trong bối cảnh đời sống thường nhật bình thường. Nếu khổ đau là một điều không thể tránh được trong đời sống của chúng ta, chúng ta phải tìm cách làm sao cho khổ đau càng ít càng tốt qua những phương pháp thực tế và cụ thể. Tôi suy đi nghĩ lại tư về sự công hiệu của các chương trình tiền- và hậu-sản và việc chăm lo sức khỏe bà mẹ và em bé; về sự cân xứng giửa các cơ sở vật chất và số người già cả đang tăng dần; về các dịch vụ y tế toàn diện; về tính từ bi của các nhà dưỡng lão và viện tế bần. Tôi đặc biệt phân vân về hai cái khổ sau cùng: phải xa lìa người mình yêu thương, bị buộc phải sống với người mình không thương yêu. Có kinh nghiệm nào trong đời sống của chính Đức Phật đã khiến ngài kèm thêm hai nổi khổ đó vào danh sách những điều khổ lớn? Tôi nghĩ đến những người tù nhân và những người tị nạn, những người lao động di dân và những nạn nhân của tệ nạn buôn bán nguời, và đại khối những người đã bị kéo tuộc ra khỏi nhà họ và bứng rễ khỏi mặt đất, để xa cách gia đình và bè bạn, để bị ép buộc sống cho hết cuộc đời còn lại giửa những người lạ mặt không phải lúc nào cũng niềm nở đón tiếp.
Chúng ta may mắn được sống trong một thời đại mà phúc lợi xã hội và trợ giúp nhân đạo được công nhận là không những đáng mong muốn mà còn cần thiết. Tôi may mắn được sống trong một thời đại mà số phận các tù nhân lương tâm dù ở bất cứ nơi nào đã được mọi người ở mọi nơi quan tâm đến, một thời đại mà dân chủ và nhân quyền được chấp nhận một cách rộng rải như là quyền bẩm sinh của tất cả mọi người, cho dù sự chấp nhận đó vẫn chưa mang tính phổ quát. Biết bao nhiêu lần trong những năm quản chế tại nhà tôi đã lấy được sức mạnh từ những câu tôi rất thích trong lời mở đầu của Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền:
[…] việc coi thường và khinh thị nhân quyền đã gây nên những hành động man rợ làm cho lương tâm con người uất hận, mà việc thăng tiến của một thế giới làm cho nhân loại được hoan hưởng quyền tự do phát biểu và tin tưởng, tự do an vui và thoải mái, đã được công nhận là một ước vọng cao nhất của chung con người,
[…] nếu con người không bị bắt buộc phải sử dụng đến việc nổi loạn như là phương tiện bất đắc dĩ để chống lại với bạo quyền và đàn áp, thì nhân quyền thực sự cần phải được qui luật pháp lý bênh vực..
Nếu có ai hỏi tôi tại sao tôi chiến đấu cho nhân quyền tại Miến Điện, các câu trên sẽ trả lời. Nếu có ai hỏi tôi tại sao tôi chiến đấu cho dân chủ tại Miến Điện, lý do là tôi tin rằng các định chế dân chủ và việc thực hành dân chủ là những gì cần thiết để đãm bảo cho nhân quyền.
Trong năm vừa qua, đã có những dấu hiệu cho thấy các nỗ lực của những người tin tưởng vào dân chủ và nhân quyền đã bắt đầu có kết quả tại Miến Điện. Đã có những thay đổi tích cực; nhiều bước tiến về một nền dân chủ đã được thực thi. Nếu tôi kêu gọi hãy lạc quan thận trọng, lý do không phải là tôi không tin vào tương lai nhưng vì tôi không muốn khuyến khích lòng tin mù quáng. Nếu không tin về tương lai, nếu không tin chắc là các giá trị dân chủ và các nhân quyền cơ bản không những cần thiết mà còn có thể có được trong xã hội chúng tôi, phong trào của chúng tôi đã không có khả năng tồn tại qua những năm dài bị công phá triền miên. Một số những chiến sĩ của chúng tôi đã ngã gục tại chổ, một số đã phải bõ rơi chúng tôi, nhưng một nhóm nòng cốt đã tiếp tục kiên trì giử vững lập trường. Vào những lúc khi nhìn lại những năm đã trôi qua, tôi ngạc nhiên khi thấy có rất nhiều người vẫn tiếp tục không hề thay lòng đổi dạ ngay trong những hoàn cảnh khó khăn nhất. Niềm tin của những nguời đó vào lý tưởng của chúng tôi không mù quáng; niềm tin đó dựa trên một đánh giá thực tế và sáng suốt về khả năng chịu đựng của họ, và một sự kính trọng sâu sắc các khát vọng của đồng bào chúng tôi.
Chính nhờ những thay đổi gần đây tại nước tôi mà tôi đến được với quý vị vào ngày hôm nay; và các thay đổi đó đã xảy ra vì quý vị và những người yêu tự do và công lý khác đã góp phần giúp cho cả thế giới biết đến tình trạng của chúng tôi. Trước khi tiếp tục nói về nước tôi, tôi xin được phép nói về những tù nhân lương tâm. Vẫn còn có những tù nhân như thế tại Miến Điện. Điều cần phải lo sợ là vì các người bị giam cầm nổi tiếng đã được thả ra, những người còn lại, những nguời không ai biết, sẽ bị bỏ quên. Tôi đang đứng đây vì đã có một thời tôi là một tù nhân lương tâm. Khi quý vị nhìn tôi và nghe tôi nói, xin hãy nhớ đến sự thật thường được nhắc đi nhắc lại là một tù nhân lưong tâm là một tù nhân luơng tâm quá nhiều. Tại nước tôi, những người vẫn chưa được trao trả tự do, những người vẫn chưa tiếp cận được với các phúc lợi của công lý, những người đó rất rất nhiều chứ không chỉ là một người. Xin hãy nhớ đến họ và làm bất cứ gì có thể làm được để giúp họ được phóng thích vô điều kiện và càng sớm càng tốt.
Miến Điện là một nước gồm nhiều sắc tộc khác nhau và nền tảng của niềm tin về tương lai của đất nước này chỉ có thể là tinh thần liên hiệp đích thật. Từ ngày dành được độc lập vào năm 1948, chưa hề có một lúc nào mà chúng tôi có thể khẳng định là cả nước đã sống trong hòa bình. Chúng tôi chưa đủ sức gầy dựng được lòng tin người và sự kiến thức cần thiết để loại bỏ cội nguồn của tranh chấp. Hy vọng đã vương lên khi ngưng bắn được duy trì được từ đầu thập niên 1990 cho đến năm 2010, khi mà các cuộc ngưng chiến bị phá vỡ chỉ trong vài tháng. Chỉ cần một hành vi thiếu suy xét là những cuộc ngưng chiến lâu dài sẽ bị chấm dứt. Trong những tháng gần đây, đã có tiến bộ trong các thương thảo giữa chính quyền và các lực lượng sắc tộc. Chúng tôi hy vọng là các thoả uớc ngưng bắn sẽ đưa đến các thoả hiệp chính trị dựa trên các khát vọng của các sắc dân và trên tinh thần liên hiệp.
Đảng tôi, Liên Minh Quốc Gia Dân Chủ, và tôi sẳn sàng và muốn đóng bất cứ vai trò nào trong quy trình hòa giải quốc gia. Các biện pháp cải cách do chính phủ của tổng thống U Thein Sein khởi động chỉ có thể duy trì được khi có sự hợp tác thông minh của tất cả các trung tâm quyền lực trong nước: quân đội, các sắc tộc, các đảng phái chính trị, các cơ quan truyền thông, các tổ chức xã hội dân sự, cộng đồng các nhà kinh doanh, và quan trọng nhất, quần chúng. Chúng ta có thể nói cải cách chỉ có hiệu quả khi đời sống con người được cải thiện và nhìn dưới khía cạnh này, cộng đồng quốc tế có một vai trò trọng yếu. Viện trợ phát triển và viện trợ nhân đạo, các hiệp ước song phương và đầu tư phải được phối hợp và hiệu chỉnh để thúc đẩy tăng trưởng xã hội, chính trị và kinh tế và bảo đảm là sự tăng trưởng đó sẽ cân bằng và bền vững. Tiền năng của đất nước chúng tôi rất lớn. Tiềm năng đó phải được nuôi dưởng và phát triển để tạo dựng một xã hội không những thịnh vượng hơn mà còn hài hòa và dân chủ hơn, một xã hội trong đó người dân nước tôi sẽ có thể sống trong hòa bình, an toàn, và tự do.
Hòa bình của thế giới chúng là một cái gì không thể phân chia được. Chừng nào các thế lực tiêu cực vẫn còn thắng thế trên các thế lực tích cực dù ở bất cứ nơi nào, tất cả chúng ta đều ở trong một trạng thái nguy hiểm. Nguời ta có thể hỏi có khi nào thì các tất cả các thế lực tiêu cực sẽ bị loại bỏ. Câu trả lời giản dị là: “Không!” Trong bản chất con người có cả hai cái tích cực và tiêu cực. Tuy nhiên, con người cũng có khả năng làm sao cho tích cực gia tăng và tiêu cực bị giảm thiểu hay vô hiệu hóa. Hòa bình tuyệt đối trên thế giới chúng ta là một mục tiêu không thể nào đạt đến được. Nhưng đó là chính là mục tiêu của cuộc hành trình của chúng ta, và mắt chúng ta phải không ngừng nhìn về mục tiêu đó, cũng như một người du hành đang đi qua một sa mạc nhìn về một ngôi sao chỉ đường sẽ hướng dẩn ông ta đến sự cứu rỗi. Dù chúng ta sẽ không thành công khi tìm cách mang lại hòa bình tuyệt hảo cho địa cầu, bởi vì hòa bình tuyệt hảo chưa hề thuộc về địa cầu này, các nỗ lực tranh thủ hòa bình sẽ kết hợp các cá nhân và các quốc gia trong niềm tin vào nhau và tình bạn và sẽ giúp cộng đồng loài người trở nên an toàn và tử tế hơn.
Tôi dùng cụm từ “tử tế” sau khi đã suy nghĩ một cách thận trọng; có thể nói sau khi đã suy nghĩ thận trọng trong nhiều năm. Trong tất cả các điều ngọt ngào mà nghịch cảnh mang đến, và tôi xin nói ngay là không có bao nhiêu điều ngọt ngào đó, tôi đã tìm ra điều ngọt ngào nhất, quý hiếm nhất, và đó là bài học tôi đã tiếp thu được về giá trị của lòng tử tế. Mọi hành vi tử tế tôi đã tiếp nhận được, dù nhỏ hay lớn, đã làm tôi tin chắc rằng thế gian này sẽ không bao giờ có đủ tử tế. Tử tế có nghĩa là đáp lại một cách tế nhị và với nhiệt tâm những hy vọng và nhu cầu của người khác. Những hành vi tử tế dù nhỏ nhặt nhất có thể làm một con tim đang trỉu nặng trở nên nhẹ nhàng. Tử tế có khả năng thay đổi được kiếp người. Thụy Điển đã chứng tõ được lòng tử tế mẩu mực bằng cách cấp phát nhà cho những người đã bị di dời trên địa cầu này, và cung cấp một nơi trú ẩn an toàn những người đã không còn có an ninh và tự do trên quê hương họ.
Người tị nạn có mặt khắp nơi trên thế giới. Gần đây, khi tôi đến trại tị nạn Maela tại Thái Lan, tôi đã gặp những người đã quyết tâm phấn đấu từng ngày sao cho đời sống những nguời ở trong trại ngày càng ít cực nhọc hơn. Họ nói về ưu tư của họ về hiện tượng “các nước chi viện mệt mỏi”, một cụm từ còn có thể dịch ra là “lòng từ bi mệt mỏi.” Hiện tượng “các nước chi viện mệt mỏi” thể hiện một cách chính xác qua việc cắt giảm tài trợ. Hiện tượng “lòng từ bi mệt mỏi” thể hiện một cách it nổi bật hơn qua việc giảm thiểu ưu tư. Hiện tượng này là hậu quả của hiện tượng kia. Có thể nào chúng ta chấp nhận được lòng từ bi mệt mỏi một cách thiếu suy xét hay không? Giá phí phải trả khi đáp ứng nhu cầu của những người tị nạn có lớn hơn giá phí sẽ phải trả nếu chúng ta không nhìn, hay nhìn một cách hững hờ, đến nổi đau khổ của họ? Tôi kêu gọi các nước chi viện trên toàn cầu hay đáp ứng nhu cầu của những người đang tìm kiếm, lắm lúc trong vô vọng đối với họ, một nơi trú ẩn.
Tại Maela, tôi đã có những cuộc thảo luận có giá trị với các viên chức người Thái có trách nhiệm quản lý tỉnh Tak, nơi mà trại này và nhiều trại khác đã được thiết lập. Các người này đã giúp tôi làm quen được với một số vấn đề hệ trọng liên quan đến các trại tị nạn: sự vi phạm các luận lệ kiểm lâm, việc xử dụng ma túy trái phép, việc cất rượu tại nhà, và các vấn đề liên quan đến việc kiểm soát bệnh sốt rét rừng, bệnh lao, bệnh sốt xuất huyết, và bệnh dịch tả. Các ưu tư của những nhà quản lý trại chính đáng không kém các ưu tư của những người tị nạn. Các quốc gia chứa chấp người tị nạn cũng xứng đáng được quan tâm đến và cần được giúp đỡ khi phải tìm cách giải quyết với các khó khăn liên hệ đến trách nhiệm của họ.
Rốt ráo, mục tiêu của chúng ta phải là tạo dựng một thế giới trong đó sẽ không có ai là kẽ bị di dời, hay là người vô gia cư hay là người vô vọng; một thế giới trong đó mọi ngỏ ngách đều là một nơi trú ẩn, một thế giới trong đó các cư dân sẽ có tự do và khả năng sống trong hòa bình. Mổi ý niệm, mổi từ, mổi hành động khi góp phần vào sự tích cực và sự tinh khiết đều là một đóng góp cho hòa bình. Mổi người chúng ta ai ai cũng có khả năng đóng góp như thế. Chúng ta hãy nối vòng tay để ra sức xây dựng một thế giới hoà bình trong đó chúng ta có thể đi ngủ trong an toàn và thức dậy trong hạnh phúc.
Ủy Ban Nobel kết luận bằng những câu sau đây trong lời tuyên bố ngày 14 tháng Mười năm 1991: “ Khi trao giải Nobel Hòa Bình…cho Aung San Suu Kyi, Uỷ Ban Nobel Thụy Điển muốn vinh danh người đàn bà này vì các nỗ lực không ngừng của bà và muốn bày tõ sự hỗ trợ Ủy Ban dành cho nhiều người khác trên khắp thế giới đang ra sức tiến đến được các mục tiêu dân chủ, nhân quyền, và hòa giải dân tộc bằng các biện pháp hòa bình.” Khi tôi tham gia phong trào dân chủ tại Miến Điện, chưa bao giờ tôi nghĩ là tôi sẽ có cơ may nhận lãnh được bất cứ giải thưởng hay vinh dự gì. Giải thưởng chúng tôi đã làm việc để dành lấy là một xã hội tự do, an toàn, và công bằng trong đó người dân nước tôi sẽ có khả năng biến mọi tiềm năng họ có thành hiện thực. Danh dự nằm trong nỗ lực của chúng tôi. Lịch sử đã cho chúng tôi cơ hội làm hết sức mình cho một mục tiêu mà chúng tôi đã tin tưởng. Khi Ủy Ban Nobel chọn vinh danh tôi, con đường mà chính cá nhân tôi đã tự do chọn lựa đã trở thành một con đường ít cô đơn hơn. Và do đó, tôi cám ơn Ủy Ban, nhân dân Thụy Điển, và tất cả các dân tộc trên thế giới đã hỗ trợ và giúp tôi củng cố niềm tin vào việc cùng tìm kiếm hoà bình. Xin cám ơn.
The Nobel Foundation 2012Bản Tiếng Việt Chấn Minh chuyển ngử – 6/18/2012
www.vietthuc.org
www.vietthuc.org
Nobel Lecture by Aung San Suu Kyi, Oslo, 16 June, 2012
Original video broadcast /Click on link> http://www.nobelprize.org/
Original video broadcast /Click on link> http://www.nobelprize.org/
Your Majesties, Your Royal Highness, Excellencies, Distinguished members of the Norwegian Nobel Committee, Dear Friends,
Long years ago, sometimes it seems many lives ago, I was at Oxford listening to the radio programme Desert Island Discs with my young son Alexander. It was a well-known programme (for all I know it still continues) on which famous people from all walks of life were invited to talk about the eight discs, the one book beside the bible and the complete works of Shakespeare, and the one luxury item they would wish to have with them were they to be marooned on a desert island. At the end of the programme, which we had both enjoyed, Alexander asked me if I thought I might ever be invited to speak on Desert Island Discs. “Why not?” I responded lightly. Since he knew that in general only celebrities took part in the programme he proceeded to ask, with genuine interest, for what reason I thought I might be invited. I considered this for a moment and then answered: “Perhaps because I’d have won the Nobel Prize for literature,” and we both laughed. The prospect seemed pleasant but hardly probable.
(I cannot now remember why I gave that answer, perhaps because I had recently read a book by a Nobel Laureate or perhaps because the Desert Island celebrity of that day had been a famous writer.)
In 1989, when my late husband Michael Aris came to see me during my first term of house arrest, he told me that a friend, John Finnis, had nominated me for the Nobel Peace Prize. This time also I laughed. For an instant Michael looked amazed, then he realized why I was amused. The Nobel Peace Prize? A pleasant prospect, but quite improbable! So how did I feel when I was actually awarded the Nobel Prize for Peace? The question has been put to me many times and this is surely the most appropriate occasion on which to examine what the Nobel Prize means to me and what peace means to me.
As I have said repeatedly in many an interview, I heard the news that I had been awarded the Nobel Peace Prize on the radio one evening. It did not altogether come as a surprise because I had been mentioned as one of the frontrunners for the prize in a number of broadcasts during the previous week. While drafting this lecture, I have tried very hard to remember what my immediate reaction to the announcement of the award had been. I think, I can no longer be sure, it was something like: “Oh, so they’ve decided to give it to me.” It did not seem quite real because in a sense I did not feel myself to be quite real at that time.
Often during my days of house arrest it felt as though I were no longer a part of the real world. There was the house which was my world, there was the world of others who also were not free but who were together in prison as a community, and there was the world of the free; each was a different planet pursuing its own separate course in an indifferent universe. What the Nobel Peace Prize did was to draw me once again into the world of other human beings outside the isolated area in which I lived, to restore a sense of reality to me. This did not happen instantly, of course, but as the days and months went by and news of reactions to the award came over the airwaves, I began to understand the significance of the Nobel Prize. It had made me real once again; it had drawn me back into the wider human community. And what was more important, the Nobel Prize had drawn the attention of the world to the struggle for democracy and human rights in Burma. We were not going to be forgotten.
To be forgotten. The French say that to part is to die a little. To be forgotten too is to die a little. It is to lose some of the links that anchor us to the rest of humanity. When I met Burmese migrant workers and refugees during my recent visit to Thailand, many cried out: “Don’t forget us!” They meant: “don’t forget our plight, don’t forget to do what you can to help us, don’t forget we also belong to your world.” When the Nobel Committee awarded the Peace Prize to me they were recognizing that the oppressed and the isolated in Burma were also a part of the world, they were recognizing the oneness of humanity. So for me receiving the Nobel Peace Prize means personally extending my concerns for democracy and human rights beyond national borders. The Nobel Peace Prize opened up a door in my heart.
The Burmese concept of peace can be explained as the happiness arising from the cessation of factors that militate against the harmonious and the wholesome. The word nyein-chan translates literally as the beneficial coolness that comes when a fire is extinguished. Fires of suffering and strife are raging around the world. In my own country, hostilities have not ceased in the far north; to the west, communal violence resulting in arson and murder were taking place just several days before I started out on the journey that has brought me here today. News of atrocities in other reaches of the earth abound. Reports of hunger, disease, displacement, joblessness, poverty, injustice, discrimination, prejudice, bigotry; these are our daily fare. Everywhere there are negative forces eating away at the foundations of peace. Everywhere can be found thoughtless dissipation of material and human resources that are necessary for the conservation of harmony and happiness in our world.
The First World War represented a terrifying waste of youth and potential, a cruel squandering of the positive forces of our planet. The poetry of that era has a special significance for me because I first read it at a time when I was the same age as many of those young men who had to face the prospect of withering before they had barely blossomed. A young American fighting with the French Foreign Legion wrote before he was killed in action in 1916 that he would meet his death: “at some disputed barricade;” “on some scarred slope of battered hill;” “at midnight in some flaming town.” Youth and love and life perishing forever in senseless attempts to capture nameless, unremembered places. And for what? Nearly a century on, we have yet to find a satisfactory answer.
Are we not still guilty, if to a less violent degree, of recklessness, of improvidence with regard to our future and our humanity? War is not the only arena where peace is done to death. Wherever suffering is ignored, there will be the seeds of conflict, for suffering degrades and embitters and enrages.
A positive aspect of living in isolation was that I had ample time in which to ruminate over the meaning of words and precepts that I had known and accepted all my life. As a Buddhist, I had heard about dukha, generally translated as suffering, since I was a small child. Almost on a daily basis elderly, and sometimes not so elderly, people around me would murmur “dukha, dukha” when they suffered from aches and pains or when they met with some small, annoying mishaps. However, it was only during my years of house arrest that I got around to investigating the nature of the six great dukha. These are: to be conceived, to age, to sicken, to die, to be parted from those one loves, to be forced to live in propinquity with those one does not love. I examined each of the six great sufferings, not in a religious context but in the context of our ordinary, everyday lives. If suffering were an unavoidable part of our existence, we should try to alleviate it as far as possible in practical, earthly ways. I mulled over the effectiveness of ante- and post-natal programmes and mother and childcare; of adequate facilities for the aging population; of comprehensive health services; of compassionate nursing and hospices. I was particularly intrigued by the last two kinds of suffering: to be parted from those one loves and to be forced to live in propinquity with those one does not love. What experiences might our Lord Buddha have undergone in his own life that he had included these two states among the great sufferings? I thought of prisoners and refugees, of migrant workers and victims of human trafficking, of that great mass of the uprooted of the earth who have been torn away from their homes, parted from families and friends, forced to live out their lives among strangers who are not always welcoming.
We are fortunate to be living in an age when social welfare and humanitarian assistance are recognized not only as desirable but necessary. I am fortunate to be living in an age when the fate of prisoners of conscience anywhere has become the concern of peoples everywhere, an age when democracy and human rights are widely, even if not universally, accepted as the birthright of all. How often during my years under house arrest have I drawn strength from my favourite passages in the preamble to the Universal Declaration of Human Rights:
[...] disregard and contempt for human rights have resulted in barbarous acts which have outraged the conscience of mankind, and the advent of a world in which human beings shall enjoy freedom of speech and belief and freedom from fear and want has been proclaimed as the highest aspirations of the common people,
[...] it is essential, if man is not to be compelled to have recourse, as a last resort, to rebellion against tyranny and oppression, that human rights should be protected by the rule of law .
If I am asked why I am fighting for human rights in Burma the above passages will provide the answer. If I am asked why I am fighting for democracy in Burma, it is because I believe that democratic institutions and practices are necessary for the guarantee of human rights.
Over the past year there have been signs that the endeavours of those who believe in democracy and human rights are beginning to bear fruit in Burma. There have been changes in a positive direction; steps towards democratization have been taken. If I advocate cautious optimism it is not because I do not have faith in the future but because I do not want to encourage blind faith. Without faith in the future, without the conviction that democratic values and fundamental human rights are not only necessary but possible for our society, our movement could not have been sustained throughout the destroying years. Some of our warriors fell at their post, some deserted us, but a dedicated core remained strong and committed. At times when I think of the years that have passed, I am amazed that so many remained staunch under the most trying circumstances. Their faith in our cause is not blind; it is based on a clear-eyed assessment of their own powers of endurance and a profound respect for the aspirations of our people.
It is because of recent changes in my country that I am with you today; and these changes have come about because of you and other lovers of freedom and justice who contributed towards a global awareness of our situation. Before continuing to speak of my country, may I speak out for our prisoners of conscience. There still remain such prisoners in Burma. It is to be feared that because the best known detainees have been released, the remainder, the unknown ones, will be forgotten. I am standing here because I was once a prisoner of conscience. As you look at me and listen to me, please remember the often repeated truth that one prisoner of conscience is one too many. Those who have not yet been freed, those who have not yet been given access to the benefits of justice in my country number much more than one. Please remember them and do whatever is possible to effect their earliest, unconditional release.
Burma is a country of many ethnic nationalities and faith in its future can be founded only on a true spirit of union. Since we achieved independence in 1948, there never has been a time when we could claim the whole country was at peace. We have not been able to develop the trust and understanding necessary to remove causes of conflict. Hopes were raised by ceasefires that were maintained from the early 1990s until 2010 when these broke down over the course of a few months. One unconsidered move can be enough to remove long-standing ceasefires. In recent months, negotiations between the government and ethnic nationality forces have been making progress. We hope that ceasefire agreements will lead to political settlements founded on the aspirations of the peoples, and the spirit of union.
My party, the National League for Democracy, and I stand ready and willing to play any role in the process of national reconciliation. The reform measures that were put into motion by President U Thein Sein’s government can be sustained only with the intelligent cooperation of all internal forces: the military, our ethnic nationalities, political parties, the media, civil society organizations, the business community and, most important of all, the general public. We can say that reform is effective only if the lives of the people are improved and in this regard, the international community has a vital role to play. Development and humanitarian aid, bi-lateral agreements and investments should be coordinated and calibrated to ensure that these will promote social, political and economic growth that is balanced and sustainable. The potential of our country is enormous. This should be nurtured and developed to create not just a more prosperous but also a more harmonious, democratic society where our people can live in peace, security and freedom.
The peace of our world is indivisible. As long as negative forces are getting the better of positive forces anywhere, we are all at risk. It may be questioned whether all negative forces could ever be removed. The simple answer is: “No!” It is in human nature to contain both the positive and the negative. However, it is also within human capability to work to reinforce the positive and to minimize or neutralize the negative. Absolute peace in our world is an unattainable goal. But it is one towards which we must continue to journey, our eyes fixed on it as a traveller in a desert fixes his eyes on the one guiding star that will lead him to salvation. Even if we do not achieve perfect peace on earth, because perfect peace is not of this earth, common endeavours to gain peace will unite individuals and nations in trust and friendship and help to make our human community safer and kinder.
I used the word ‘kinder’ after careful deliberation; I might say the careful deliberation of many years. Of the sweets of adversity, and let me say that these are not numerous, I have found the sweetest, the most precious of all, is the lesson I learnt on the value of kindness. Every kindness I received, small or big, convinced me that there could never be enough of it in our world. To be kind is to respond with sensitivity and human warmth to the hopes and needs of others. Even the briefest touch of kindness can lighten a heavy heart. Kindness can change the lives of people. Norway has shown exemplary kindness in providing a home for the displaced of the earth, offering sanctuary to those who have been cut loose from the moorings of security and freedom in their native lands.
There are refugees in all parts of the world. When I was at the Maela refugee camp in Thailand recently, I met dedicated people who were striving daily to make the lives of the inmates as free from hardship as possible. They spoke of their concern over ‘donor fatigue,’ which could also translate as ‘compassion fatigue.’ ‘Donor fatigue’ expresses itself precisely in the reduction of funding. ‘Compassion fatigue’ expresses itself less obviously in the reduction of concern. One is the consequence of the other. Can we afford to indulge in compassion fatigue? Is the cost of meeting the needs of refugees greater than the cost that would be consequent on turning an indifferent, if not a blind, eye on their suffering? I appeal to donors the world over to fulfill the needs of these people who are in search, often it must seem to them a vain search, of refuge.
At Maela, I had valuable discussions with Thai officials responsible for the administration of Tak province where this and several other camps are situated. They acquainted me with some of the more serious problems related to refugee camps: violation of forestry laws, illegal drug use, home brewed spirits, the problems of controlling malaria, tuberculosis, dengue fever and cholera. The concerns of the administration are as legitimate as the concerns of the refugees. Host countries also deserve consideration and practical help in coping with the difficulties related to their responsibilities.
Ultimately our aim should be to create a world free from the displaced, the homeless and the hopeless, a world of which each and every corner is a true sanctuary where the inhabitants will have the freedom and the capacity to live in peace. Every thought, every word, and every action that adds to the positive and the wholesome is a contribution to peace. Each and every one of us is capable of making such a contribution. Let us join hands to try to create a peaceful world where we can sleep in security and wake in happiness.
The Nobel Committee concluded its statement of 14 October 1991 with the words: “In awarding the Nobel Peace Prize … to Aung San Suu Kyi, the Norwegian Nobel Committee wishes to honour this woman for her unflagging efforts and to show its support for the many people throughout the world who are striving to attain democracy, human rights and ethnic conciliation by peaceful means.” When I joined the democracy movement in Burma it never occurred to me that I might ever be the recipient of any prize or honour. The prize we were working for was a free, secure and just society where our people might be able to realize their full potential. The honour lay in our endeavour. History had given us the opportunity to give of our best for a cause in which we believed. When the Nobel Committee chose to honour me, the road I had chosen of my own free will became a less lonely path to follow. For this I thank the Committee, the people of Norway and peoples all over the world whose support has strengthened my faith in the common quest for peace. Thank you.
The Nobel Foundation 2012
One Comment »