Các nhà kinh tế cảnh báo rằng, sau một thập niên tự do hóa ngành ngân hàng quá nhanh và một cách thiếu bài bản, Việt Nam hiện nay có quá nhiều ngân hàng ( tổng cộng là 42 ngân hàng ), trong đó nhiều ngân hàng mang đầy nợ xấu, và việc quản lý các ngân hàng nói chung là rất kém cỏi.
Năm ngoái, trước tình hình lạm phát tiếp tục tăng cao và nhiều ngân hàng thiếu thanh khoản một cách trầm trọng, chính phủ Hà Nội đã thi hành những kế hoạch tái cơ cấu rất mạnh bạo. Nay với mức lạm phát đã giảm từ 23% tháng 8 năm ngoái xuống còn khoảng 8,3% tháng 5 vừa qua, ngân hàng Trung ương có thể gia tăng nguồn cung cấp tín dụng, giảm nhẹ vấn đề thiếu thanh khoản của các ngân hàng.
Hãng tin AFP trích lời kinh tế gia Nguyễn Xuân Thành, Giám đốc chương trình giảng dạy Fulbright ở Sài Gòn nói rằng : « Tình hình nay đã lắng dịu xuống nhiều nhờ lạm phát giảm. Cho nên bây giờ họ nghĩ rằng chúng ta không cần phải cải tổ mạnh bạo như thế ».
Cũng theo ông Nguyễn Xuân Thành, yếu tố thứ hai cản trở việc cải tổ là sự kháng cự từ các chủ ngân hàng, khiến chính phủ không thể cương quyết hành động, nắm lấy một ngân hàng nào đó, làm trong sạch nó, để có thể bán đi.
Ngoài 5 ngân hàng hoàn toàn thuộc sở hữu ngoại quốc, như ANZ hay HSBC, khu vực ngân hàng của Việt Nam chủ yếu bao gồm các ngân hàng quốc doanh lớn và hàng chục ngân hàng cồ phần nhỏ hơn của các nhà đầu tư công và tư.
Sau nhiều năm mức tăng tín dụng lên quá cao, các ngân hàng này đang gánh nhiều nợ xấu, mà đa số là do các doanh nghiệp Nhà nước làm ăn thua lỗ, và do những đầu tư mang tính đầu cơ vào các dự án bất động sản. Trong khi các ngân hàng quốc doanh lớn coi như vẫn được bảo đảm của chính phủ và vẫn được các nhà đầu tư tin tưởng, thì nhiều ngân hàng cổ phần đang gặp vấn đề thiếu thanh khoản nghiêm trọng và khó mà duy trì sự tồn tại.
Tình trạng này ảnh hưởng đến nền kinh tế nói chung. Nguồn tín dụng cạn kiệt đối với các doanh nghiệp nhỏ và vửa, khiến khoảng 18 ngàn công ty đã phá sản chỉ trong năm nay.
Theo nhận định của ông Nguyễn Xuân Thành, trừ phi được cải tổ một cách kiên quyết, hệ thống ngân hàng Việt Nam sẽ vẫn không lành mạnh, tác hại đến toàn bộ nền kinh tế.
Về phần ông Jonathan Pincus, kinh tế gia làm việc cho chương trình Việt Nam của trường Harvard Kennedy, thì cho rằng, điều mà chính phủ cần làm là nắm lấy những ngân hàng yếu nhất, sáp nhập chúng lại, bán đi các nợ xấu và bán lại ngân hàng được sáp nhập. Theo ông Pincus, làm như thế sẽ nhanh hơn và bớt rủi ro hơn cho toàn bộ hệ thống. Nhưng các chủ ngân hàng sẽ chống lại điều đó.
Nhiều ngân hàng cổ phần nhỏ là sở hữu của các chi nhánh của các doanh nghiệp quốc doanh lớn hoặc của các nhóm nhà đầu tư có quan hệ chặt chẽ với chính quyền. Khu vực ngân hàng Việt Nam hiện nay có đầy những quan hệ sở hữu chồng chéo lên nhau, rất khó mà tháo gỡ được.
Kế hoạch cải tổ ngân hàng của chính phủ hiện nay dựa trên sự sáp nhập tự nguyện giữa các ngân hàng tư để cải thiện vấn đề thanh khoản. Những ngân hàng nào có bản cân đối kế toán ( balance sheet ) tốt sẽ sáp nhập những ngân hàng đang khó khăn. Nhưng theo lời kinh tế gia Jonathan Pincus, nhiều ngân hàng lại che giấu thực trạng tài chính của mình, cũng như tìm cách che giấu các khoản nợ xấu.
Ba ngân hàng yếu đã tự sáp nhập với nhau vào tháng 12 năm ngoái, nhưng theo các chuyên gia, lẽ ra chính phủ nên nắm lấy các ngân hàng đó, dọn sạch nợ xấu và cải tổ chúng một cách nghiêm chỉnh. Đối với kinh tế gia Nguyễn Xuân Thành, điều cần nhất bây giờ là Nhà nước phải cải tổ cơ cấu những ngân hàng sáp nhập không thuộc khu vực tư. Điều đó đòi hỏi những nguồn lực rất lớn, và một sự thừa nhận rõ ràng về tầm mức của vấn đề nợ xấu. Nhưng cái cần thiết đầu tiên là quyết tâm chính trị thì lại chưa có.
Năm ngoái, trước tình hình lạm phát tiếp tục tăng cao và nhiều ngân hàng thiếu thanh khoản một cách trầm trọng, chính phủ Hà Nội đã thi hành những kế hoạch tái cơ cấu rất mạnh bạo. Nay với mức lạm phát đã giảm từ 23% tháng 8 năm ngoái xuống còn khoảng 8,3% tháng 5 vừa qua, ngân hàng Trung ương có thể gia tăng nguồn cung cấp tín dụng, giảm nhẹ vấn đề thiếu thanh khoản của các ngân hàng.
Hãng tin AFP trích lời kinh tế gia Nguyễn Xuân Thành, Giám đốc chương trình giảng dạy Fulbright ở Sài Gòn nói rằng : « Tình hình nay đã lắng dịu xuống nhiều nhờ lạm phát giảm. Cho nên bây giờ họ nghĩ rằng chúng ta không cần phải cải tổ mạnh bạo như thế ».
Cũng theo ông Nguyễn Xuân Thành, yếu tố thứ hai cản trở việc cải tổ là sự kháng cự từ các chủ ngân hàng, khiến chính phủ không thể cương quyết hành động, nắm lấy một ngân hàng nào đó, làm trong sạch nó, để có thể bán đi.
Ngoài 5 ngân hàng hoàn toàn thuộc sở hữu ngoại quốc, như ANZ hay HSBC, khu vực ngân hàng của Việt Nam chủ yếu bao gồm các ngân hàng quốc doanh lớn và hàng chục ngân hàng cồ phần nhỏ hơn của các nhà đầu tư công và tư.
Sau nhiều năm mức tăng tín dụng lên quá cao, các ngân hàng này đang gánh nhiều nợ xấu, mà đa số là do các doanh nghiệp Nhà nước làm ăn thua lỗ, và do những đầu tư mang tính đầu cơ vào các dự án bất động sản. Trong khi các ngân hàng quốc doanh lớn coi như vẫn được bảo đảm của chính phủ và vẫn được các nhà đầu tư tin tưởng, thì nhiều ngân hàng cổ phần đang gặp vấn đề thiếu thanh khoản nghiêm trọng và khó mà duy trì sự tồn tại.
Tình trạng này ảnh hưởng đến nền kinh tế nói chung. Nguồn tín dụng cạn kiệt đối với các doanh nghiệp nhỏ và vửa, khiến khoảng 18 ngàn công ty đã phá sản chỉ trong năm nay.
Theo nhận định của ông Nguyễn Xuân Thành, trừ phi được cải tổ một cách kiên quyết, hệ thống ngân hàng Việt Nam sẽ vẫn không lành mạnh, tác hại đến toàn bộ nền kinh tế.
Về phần ông Jonathan Pincus, kinh tế gia làm việc cho chương trình Việt Nam của trường Harvard Kennedy, thì cho rằng, điều mà chính phủ cần làm là nắm lấy những ngân hàng yếu nhất, sáp nhập chúng lại, bán đi các nợ xấu và bán lại ngân hàng được sáp nhập. Theo ông Pincus, làm như thế sẽ nhanh hơn và bớt rủi ro hơn cho toàn bộ hệ thống. Nhưng các chủ ngân hàng sẽ chống lại điều đó.
Nhiều ngân hàng cổ phần nhỏ là sở hữu của các chi nhánh của các doanh nghiệp quốc doanh lớn hoặc của các nhóm nhà đầu tư có quan hệ chặt chẽ với chính quyền. Khu vực ngân hàng Việt Nam hiện nay có đầy những quan hệ sở hữu chồng chéo lên nhau, rất khó mà tháo gỡ được.
Kế hoạch cải tổ ngân hàng của chính phủ hiện nay dựa trên sự sáp nhập tự nguyện giữa các ngân hàng tư để cải thiện vấn đề thanh khoản. Những ngân hàng nào có bản cân đối kế toán ( balance sheet ) tốt sẽ sáp nhập những ngân hàng đang khó khăn. Nhưng theo lời kinh tế gia Jonathan Pincus, nhiều ngân hàng lại che giấu thực trạng tài chính của mình, cũng như tìm cách che giấu các khoản nợ xấu.
Ba ngân hàng yếu đã tự sáp nhập với nhau vào tháng 12 năm ngoái, nhưng theo các chuyên gia, lẽ ra chính phủ nên nắm lấy các ngân hàng đó, dọn sạch nợ xấu và cải tổ chúng một cách nghiêm chỉnh. Đối với kinh tế gia Nguyễn Xuân Thành, điều cần nhất bây giờ là Nhà nước phải cải tổ cơ cấu những ngân hàng sáp nhập không thuộc khu vực tư. Điều đó đòi hỏi những nguồn lực rất lớn, và một sự thừa nhận rõ ràng về tầm mức của vấn đề nợ xấu. Nhưng cái cần thiết đầu tiên là quyết tâm chính trị thì lại chưa có.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét